Tháng 4 năm 1774 Pierre Bayen
thí nghiệm khi đốt oxyd thủy ngân (đá vôi thủy ngân,
(chaux mercurielle ou mercure précipité per se),
sẽ tỏa ra một chất khí và khối lượng bị mất. Ông hứng khí đó và
ghi nhận rằng nó hơi đặc hơn không khí. Bayen cho rằng công bố quan sát
này không ích lợi gì , ông muốn thực hiện những thí nghiệm
tỉ mỉ hơn, cẩn thận hơn mà không xem xét chất khí thoát ra đó. Có
phải ông cho rằng chất khí đó bình thường như mọi chất khác?
Ngày 1 tháng 8
1774, Joseph Priestley làm
thí nghiệm y hệt như Pierre Bayen tại khà ông gần Calne, Anh quốc. Ông
thu được cùng chất khí trên và đặt tên là khí để đốt (air
déphlogistiqué). Ông còn nhận thấy rằng chất khí này khi hít vô sẽ cảm
thấy khoẻ và cây cối có thể làm tái sinh một phần chất khí mà chuột và
ngọn lửa thải ra. Từ các thí nghiệm trên, ông kết luận
trên là không khí quanh ta gồm hai hợp chất, một chất làm hoạt
động sự đốt và một cặn bã.
Nói về chất khí này, ông viết: "cái làm cho tôi ngạc
nhiên nhất là đèn cầy cháy bằng chất khí này có độ sáng rất mãnh
liệt..." Ông cũng diễn tả một cách tỉ mỉ các thí nghiệm của
ông và cho in ra các kết quả. Nhân dịp bữa ăn tối, khi Priestley
được mời qua Pháp tháng 10 năm 1774 thì Lavoisier mới biết được
sự khám phá ra chất khí đặc biệt mà ông gọi là "khí để hô hấp tốt
hết sức" (air éminemment respirable)
Lavoisier biết các công trình của Bayen nhưng cũng như Bayen,
không để ý độ quan trọng của chất khí này. Sự gặp gỡ với Priestley
là một phát hiện mới đối với Lavoisier: ông bị thu hút bởi các "khí" mới
này và quyết định nghiên cứu các chất khí và những
hiện tượng của sự đốt cháy. Bảy tháng sau, ông lập lại thí
nghiệm của các nhà hóa học trên và thấy rằng "chất nhiên
khí" đó là một nguyên tố mới, quan trọng hơn, là nguyên tố dùng để
đốt. Ngoài ra ông thấy ngay sự gia tăng khối lượng của các
kim loại khi bị nung khô (calcination).
Năm 1775, ông thực hiện thí nghiệm đáng
ghi nhớ trong 12 ngày và 12 đêm trên oxyd thủy ngân đỏ.
Khí tỏa ra được nghiên cứu có đặc tình quan trọng: làm hoạt động sự
cháy, giúp sự hô hấp động vật. Lavoisier kêu tên là "khí cho
sự sống" (air vital). Lavoisier khám phá rằng khí
quyển là hỗn hợp của hai khí, air vital và mofette (nitrogen)
Bayen đã thấy sự sai lầm của mình khi không
công bố sự khám phá của mình, nhưng đã trễ, ông đã bị lịch
sử quên tên
Chính Pristley là cha đẻ của oxygen, xác định đặc
tính của nó
Lavoisier xác định nó là một nguyên tố
Oxygen:

Tên: Oxygen
Ký hiệu: O
Số nguyên tử: 8
Khối lượng nguyên tử: 15.9994 amu
Điểm nóng chảy: -218.4°C (54.750008°K, -361.12°F)
Điểm sôi: -183.0°C (90.15°K, -297.4°F)
Số Protons/Electrons: 8
Số Neutrons: 8
Phân loại: không kim loại
Cơ cấu tinh thể: khối lập phương
Tỷ trọng ở 293 K: 1.429 g/cm3
Màu: không màu
Oxygen tượng trưng cho :
21% thể tích khí quyển
Nửa trọng lượng lớp vỏ địa cầu
88,8 % trọng lượng nước
23,2 % không khí (75,6 % nitrogen)
62,5 % cơ thể con người và cho tới 88 % ở một số sinh vật ở biển
Có thể sống sót lâu với không khí chứa 14 % oxygen, rối loạn quan
trọng ở 7 % và nghẹt thở ở 3 %
Oxygen, nguyên tố cần thiết cho đời sống
Là nguyên tố phổ biến, dồi dào nhất của vỏ trái đất
trong số đó có đất đá và sông biển với khí quyển. Nó tượng trưng
cho 49,5% của khối lượng vỏ quả đất (53,3% tính theo số nguyên tử), đứng
trước quá xa so với silicium (25,7% tính theo khối lượng). Trong
không khí oxygen ở dưới dạng phân tử có hai nguyên tử oxygen (O2).
Kết hợp với hydrogen, cho ra nước H2O
Trong đất đá, nó có trong các khoáng chất có
oxygen (oxyd, hydroxyd, silicat, carbonat, sulfat, phosphat..)
Nơi các sinh vật, oxygen ở dưới dạng phân tử
hữu cơ có oxygen và những hợp chất vô cơ như phosphat
apatitic trong xương và răng, các carbonat trong vỏ sò.
Cơ cấu nguyên tử của oxygen:
Tầng điện tử hóa trị (tầng 2) gồm 6 điện tử và
oxygen được xếp hạng ở cột thứ VIA của bảng phân loại
tuần hoàn. Đó là nguyên tố dầu tiên của nhóm tương đối đồng nhất
gồm 4 nguyên tố khác là: lưu huỳnh (S), selenium (Se), tellurium
(Te) và polonium (Po). Hai điện tử 2s tạo thành một cặp điện tử có spin
nghịch chiều nhau và 4 điện tử 2p khác phải rải lên ba quỹ đạo
2px, 2py và 2pz cùng một mực lăng lượng: Hai trong số
các điện tử sẽ tạo thành một cặp điện tử trên cùng một quỹ đạo,
nhưng hai điện tử còn lại bị bó buộc phải ở trên
hai quỹ đạo còn lại (Luật Hund), nên là những điện tử độc thân. Cấu hình
điện tử của oxygen làm cho nó có tính chất đặc biệt.
Theo luật tám điện tử, nguyên tử oxygen có khuynh
hướng thu thêm hai điện tử để tạo ra cấu trúc của neon (Ne)
là khí hiếm đứng sát bên nó (1s2, 2s2, 2p6)
nghĩa là tạo ra ion O2-
Do đó oxygen là nguyên tố có tính âm điện
mạnh (3,44 theo thang Pauling), tính âm điện của nó chỉ
bị fluor (F) qua mặt (3,98). Đó là một nguyên tố không kim loại điển
hình.
Bài đọc thêm:
Bảng phân loại tuần
hoàn