I/Chúng
ta biết gì về vật chất?
Các nhà triết học cổ Hy Lạp
cho rằng vũ trụ được cấu thành từ những phần tử
nhỏ bé không thể "cắt nhỏ" được nữa mà họ
gọi là nguyên tử. Họ đoán rằng các đối tượng vật
chất đều được tạo thành từ tổ hợp của một số
ít các viên gạch sơ cấp đó, cũng gần giống như các
từ là tổ hợp chỉ của dăm ba chữ cái. Và họ đã đoán
đúng. Hơn 2000 năm sau, chúng ta vẫn còn tin rằng điều đó
là đúng, mặc dù bản chất của những viên gạch cơ bản
nhất đó cũng đã tiến hóa rất nhiều.
 |
|
Ở thế kỷ XIX nhiều
nhà khoa học đã chứng tỏ rằng nhiều chất quen
thuộc như oxy và carbon đều có một thành phần nhỏ
nhất có thể nhận dạng được và theo truyền thống
Hy Lạp họ cũng gọi chúng là các nguyên tử. Cái tên
thì vãn thế, nhưng lịch sử đã chứng tỏ là đó
là một cái tên không đạt, bởi lẽ các nguyên tử
thực sự vẫn có thể cắt nhỏ được. Vào những
năm 1930, những công trình tập thể của Joseph John
Thomson, Ernest Rutherford, Niels Bohr và James Chadwick đã
cho ra đời một mô hình nguyên tử giống như hệ
mặt trời (vì thế mô hình này còn được gọi là
"mẫu hành tinh") mà phần lớn chúng ta đều
đã rất quen thuộc. Trong mô hình này, nguyên tử
không phải là thành phần sơ cấp nhất của vật
chất mà là được tạo thành từ một hạt nhân chứa
proton và neutron với đám mây electron bao quanh |
|
|
|
Có một thời, nhiều nhà vật lý
đã tưởng rằng proton, neutron và electron chính là các
"nguyên tử" theo định nghĩa của người cổ Hy
lạp. Nhưng vào năm 1968, những thí nghiệm được
tiến hành trên máy gia tốc tuyến tính ở Standford, Hoa Kỳ,
đã cho thấy rằng các proton
và neutron cũng không
phải là các hạt cơ bản nhất, chúng lại được
cấu tạo bởi ba hạt nhỏ hơn, đó là các hạt quark.
Cái tên kỳ cục này đã được
Murrey Gell Mann -người đầu tiên đoán sự tồn tại của
chúng -lấy từ cuốn tiểu thuyết Finnegans Wake của nhà
văn nổi tiếng người Scotland –James Joyce.
Thực nghiệm cũng khẳng định
sự tồn tại của hai loại quark:quark u (up) và quark d
(down).
 |
|
Proton được tạo bởi
hai quark u và một quark d, |
 |
|
còn neutron
bởi hai quark d và một quark u. |
Tất cả mọi vật mà
bạn thấy trong thế giới ở mặt đất cũng như trên
trời đều được tạo từ tổ hợp các electron, các
quark u và các quark d. Không có một bằng chứng thực
nghiệm nào chỉ ra rằng các hạt này không phải là sơ
cấp nhất, tức là được cấu tạo nên từ các hạt khác
nhỏ hơn. Nhưng cũng có rất nhiều bằng chứng cho thấy
Vũ trụ còn có những hạt sơ cấp khác nữa.
 |
|
|
Frederick Reines và
Clyde Cowan |
|
|
Vào giữa những năm
1950, Frederick Reines và Clyde Cowan đã tìm được một
bằng chứng thực nghiệm xác thực cho loại hạt cơ
bản thứ tư gọi là hạt neutrino
và Wolfgang Pauli đã tiên đoán sự tồn tại của nó vào
đầu những năm 1930.
Neutrino là những hạt
rất khó phát hiện vì chúng rất hiếm khi tương tác
với các hạt vật chất khác: Một neutrino có năng lượng
trung bình có thể đi qua một tấm chì dày hàng ngàn kilômét
mà chuyển động của nó không mảy may chịu một ảnh hưởng
nào. Điều này sẽ khiến bạn cảm thấy yên tâm hơn
rất nhiều, bởi lẽ ngay khi bạn đang đọc những dòng
này, thì hàng tỷ neutrino do Mặt Trời phóng vào không
gian đang xuyên qua cơ thể bạn và qua cả Trái Đất
nữa, như một phần trong hành trình đơn độc của chúng
trong Vũ trụ.
Một hạt cơ bản khác
có tên là muon đã
được phát hiện vào cuối những năm 30 bởi các
nhà vật lý nghiên cứu tia Vũ trụ (đó là những
trận mưa hạt tới từ không gian Vũ trụ thường
xuyên tới bắn phá Trái Đất). Muon rất giống
electron chỉ có điều khối lượng của nó lớn hơn
cỡ 200 lần.
 |
|
Do không có gì trong trật tự
của Vũ trụ, không có một vấn đề nào chưa được
giải quyết cũng như chẳng có một vị trí thích
hợp nào đòi hỏi phải có sự tồn tại của hạt
muon, nên nhà vật lý hạt được giải thưởng Nobel Isaac
Isidor Rabi (1898-1988, Nobel Vật lý năm 1944)
đã đón tiếp sự phát minh ra nó với lời chúc
mừng không mấy hào hứng: “Ai đã ra lệnh để có
mày trên đời này ?”. Tuy nhiên, muon vẫn hiện
diện đó và chúng ta vẫn sẽ còn chưa hết ngạc
nhiên.
|
Nhờ những công nghệ ngày
càng tân tiến hơn, các nhà vật lý tiếp tục bắn phá
các khối vật chất với năng lượng ngày càng cao hơn,
và bằng cách đó, có lúc, họ đã tạo lại được
những điều kiện chưa từng thấy kể từ Big Bang. Họ
đào bới trong các mảnh vỡ nhằm tìm kiếm những hạt
cơ bản mới để thêm vào danh sách ngày càng dài của các
hạt.
QUARKS
Q = 2/3 |
quark up
u |
quark charm
c |
quark top
t |
QUARKS
Q = -1/3 |
quark down
d |
quark strange
s |
quark bottom
b |
LEPTONS
Q = -1 |
électron
e- |
muon
m- |
tau
t- |
LEPTONS
Q = 0 |
neutrino
électronique ne |
neutrino
muonique
nm |
neutrino
du tau
nt |
Và họ đã phát hiện thêm
4 hạt quark mới, đó là quark c
(charm), quark s (strange), quark b (bottom), quark t (top)
và hạt họ hàng thứ hai của electron có tên là hạt tau
còn nặng hơn cả muon cùng với hai hạt khác nữa tương
tự như hạt nơtrinô (mà người ta gọi là neutrino-mu và
neutrino-tau để phân biệt với neutrino đầu tiên có tên
là neutrino-e hay neutrino-electron). Tất cả những hạt được
tạo ra trong những va chạm ở năng lượng cao này đều
rất phù du và không thuộc số những thành phần tạo nên
vật chất của thế giới xung quanh chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn
chưa hoàn toàn ở tận cùng của bản danh sách, bởi vì
ứng với mỗi một hạt còn có một phản – hạt, có cùng
khối lượng với hạt, nhưng một số đặc tính khác
của nó thì ngược lại, chẳng hạn như điện tích hay
một số tích khác tương ứng với các lực khác mà chúng
ta sẽ giới thiệu ngay dưới đây. Ví dụ, phản-hạt
của electron gọi là positron,
nó có khối lượng đúng như electron, nhưng diện tích
của nó là +1 thay vì là -1 như electron. Khi vật chất
gặp phản vật chất, chúng sẽ huỷ nhau để chỉ tạo
ra năng lượng thuần tuý, chính vì lẽ đó mà chỉ có
rất ít phản vật chất có trong tự nhiên của thế
giới bao quanh chúng ta.
Các nhà vật lý cũng đã
phát hiện được một loại sơ đồ sắp xếp các hạt:
các thành phần cấu tạo nên vật chất được tổ
chức thành ba nhóm hay thường được gọi là ba họ như
được trình bày trong Bảng 1.1. Mỗi họ đều chứa hai
quark, một electron hay một trong số hai hạt họ hàng
của nó cùng với neutrino gắn với chúng. Các loại hạt
tương ứng trong cả ba họ đều có tính chất như nhau,
chỉ có điều khối lượng của chúng lớn dần từ họ
thứ nhất tới họ thứ ba. Kết quả là, hiện nay các
nhà vật lý đã thăm dò được cấu trúc của vật
chất tới các thang khoảng một phần tỷ mét và chứng
tỏ được rằng mọi thứ mà ta gặp – dù là có trong
tự nhiên hay được con người tạo ra từ những máy va
chạm nguyên tử khổng lồ - đều được tạo thành
chỉ từ một tổ hợp nào đó của các hạt trong ba họ
đó và các phản-hạt của chúng.
Họ
I |
Họ
II |
Họ
III |
Hạt |
Khối
lượng |
Hạt |
Khối
lượng |
Hạt |
Khối
lượng |
electron |
0,00054 |
muon |
0,11 |
tau |
1,9 |
neutrino-e |
<
10-8 |
neutrino-mu |
<
0,0003 |
neutrino-tau |
<
0,033 |
quark
u |
0,0047 |
quark
c |
1,6 |
quark
t |
189 |
quark
d |
0,0074 |
quark
s |
0,16 |
quark
b |
5,2 |
Bảng 1.1. Ba họ các hạt
sơ cấp. Khối lượng của chúng được tính theo khối lượng
của proton lấy làm đơn vị. Giá trị khối lượng của
nơtrino luôn lảng tránh sự xác định bằng thực
nghiệm.
Nhìn vào Bảng 1.1., ta hiểu rõ hơn sự lúng
túng của Rabi khi đối mặt với sự phát hiện ra hạt
muon: sự sắp xếp các họ hạt dường như khá có tổ
chức nhưng cũng lại đặt ra nhiều câu hỏi. Tại sao
lại có nhiều hạt cơ bản đến thế, nhất là khi hầu
hết các vật trong thế giới xung quanh chúng ta lại chỉ
được tạo bởi electron, quark u và quark d? Tại sao lại
cần tới những ba họ chứ không phải là một? Và tại
sao lại không phải là bốn họ hay bất cứ một số
họ nào khác? Tại sao khối lượng của các hạt lại có
vẻ như được gán cho một cách ngẫu nhiên như vậy?
Chẳng hạn, tại sao hạt tau lại nặng hơn electron tới
ba ngàn năm trăm hai mươi lần? Và tại sao quark t lại
nặng hơn hạt đồng loại với nó là quark u tới bốn mươi
ngàn hai trăm lần ? Đó là những con số thật lạ lùng
và dường như khá ngẫu nhiên. Liệu chúng có phải kết
quả của sự ngẫu nhiên hay do một đấng thần thánh nào
đó tạo ra, hoặc có một cách giải thích khoa học có
thể hiểu được đối với tất cả những đặc điểm
cơ bản đó của Vũ trụ chúng ta?
II/Các lực hay bản chất của photon
Mọi chuyện trở nên phức tạp hơn khi chúng
ta xét tới các lực của tự nhiên. Thế giới xung quanh
chúng ta đầy rẫy những phương tiện gây tác động:
những chiếc vợt dập vào quả bóng, những vận động
viên nhảy cầu có thể tung mình lao xuống từ những
cầu nhảy cao, các nam châm lớn nâng những đoàn tàu cao
tốc trên được ray riêng của chúng, các máy đếm
Geiger phát tín hiệu khi có chất phóng xạ, những quả
bom hạt nhân phát nổ... Và bản thân chúng ta cũng có
thể tác động lên các vật bằng cách kéo, đẩy hoặc
lắc chúng, bằng cách ném hoặc bắn các vật khác vào
chúng, bằng cách kéo giãn, vặn xoắn hoặc nghiền nát
chúng, hoặc bằng cách làm lạnh, đốt nóng, hoặc đốt
cháy chúng... Trong suốt thế kỷ XX, các nhà vật lý đã
tích lũy được rất nhiều bằng chứng cho thấy tất
cả những tương tác đó giữa các vật và các chất khác
nhau, cũng như hàng triệu tương tác khác mà chúng ta
gặp hằng ngày, đều có thể quy về những tổ hợp
của bốn lực cơ bản. Một trong số bốn lực đó
là lực hấp dẫn. Ba lực khác là lực điện từ và hai
lực hạt nhân mạnh và yếu.
Bốn lực cơ bản:
Trong số bốn lực trên, lực
hấp dẫn là lực quen thuộc nhất. Chính lực này
đã giữ cho Trái Đất của chúng ta quay quanh Mặt Trời
và cũng nhờ nó mà bàn chân chúng ta bám chặt được vào
mặt đất. Khối lượng của một vật là thước đo
lực hấp dẫn mà nó có thể tác dụng cũng như lực
hấp dẫn mà nó có thể bị tác dụng. Nó là nền tảng
của những tiện nghi trong đời sống hiện đại (điện,
TV, điện thoại, máy tính...), cũng như của sức mạnh
đầy ấn tượng của sấm sét và ngay cả của cái
vuốt ve dịu dàng của bàn tay. Ở thang vi mô, điện tích
của hạt đóng vai trò đối với lực điện từ như là
khối lượng đối với lực hấp dẫn: nó xác định cường
độ của lực điện từ mà hạt đó có thể tác dụng
cũng như cường độ phản ứng của nó đối với lực
ấy.
Các lực hạt nhân
mạnh và yếu ít quen thuộc hơn, đơn giản là vì cường
độ của chúng giảm rất nhanh ở ngoài thang kích thước
dưới nguyên tử. Chính vì thế mà rất gần đây, các
nhà vật lý mới phát hiện ra chúng. Nhờ lực hạt nhân
mạnh mà các quark vẫn còn “dính” với nhau ở bên
trong các proton và neutron cũng như giữ chặt chính các
hạt này bên trong hạt nhân nguyên tử. Còn lực yếu là
lực gây ra sự phân rã phóng xạ của một số nguyên
tố như uranium, cobalt...
Trong suốt thế kỷ trước, các nhà vật
lý cũng đã phát hiện ra hai điểm chung của tất cả các
lực cơ bản. Thứ nhất, như chúng ta sẽ thấy trong Chương
5, ở mức vi mô, mỗi một lực đều tương ứng với
một loại hạt mà ta có thể hiểu như là một “bó”
nhỏ nhất của lực đó. Nếu bạn bắn một chùm laser
– tức cũng là một chùm tia của bức xạ điện từ
– thì có nghĩa là bạn đã bắn một chùm hạt photon
– những bó nhỏ nhất của tương tác điện từ. Cũng
tương tự, các lực yếu và mạnh có các bó sơ cấp tương
ứng là các hạt boson yếu
và các hạt gluon. (Cái tên
gluon ở đây là rất gợi: chúng có thể được xem như
là các thành phần vi mô của một “chất keo” (tiếng
Anh là glue) đảm bảo sự gắn kết của các hạt nhân
nguyên tử). Ngay từ năm 1984, các nhà thực nghiệm đã xác
lập được sự tồn tại cũng như tính chất của ba
loại “hạt tương tác” (xem Bảng 1.2). Còn graviton
– hạt tương tác gắn với lực hấp dẫn, mặc dù còn
chưa có những khẳng định bằng thực nghiệm, nhưng các
nhà vật lý hầu như đã tin vào sự tồn tại của chúng.
Lực |
Hạt
tương tác |
Khối
lượng |
lực
hạt nhân mạnh |
gluon |
0 |
lực
điện từ |
photon |
0 |
lực
hạt nhân yếu |
các
boson yếu |
86-97 |
lực
hấp dẫn |
graviton |
0 |
Bảng 1.2. Đối với mỗi
lực cơ bản đều cho hạt tương tác tương ứng và
khối lượng của nó (tính theo đơn vị là khối lượng
của proton). Đối với lực hạt nhân yếu, có nhiều
hạt tương tác với khối lượng nhận một trong hai giá
trị cho trong bảng. Sự không có khối lượng của graviton
vẫn chỉ là giả thuyết.
Điểm chung thứ hai của tất cả các
lực cơ bản liên quan tới các “tích”: cũng hệt như
khối lượng của các hạt do tác dụng của lực hấp
dẫn lên nó, điện tích xác định cường độ của
lực điện từ tác dụng lên hạt, các hạt mang “tích
yếu” hoặc “tích mạnh” là những tính xác định cường
độ của các lực yếu và lực mạnh tương ứng tác
dụng lên hạt đó. (Chi tiết về tính chất của các
hạt cơ bản được cho trong bảng ở phần Chú thích
của bài này [1]). Điện tích
và khối lượng đã được các nhà vật lý thực
nghiệm đo đạc rất chính xác, nhưng thật không may, cho
tới nay chưa có ai có thể giải thích được tại sao Vũ
trụ của chúng ta lại tạo bởi những hạt mang đúng
những giá trị khối lượng và điện tích đó?
[1]
Bảng dưới đây khá chi tiết hơn so với Bảng 1.1.,
trong đó liệt kê khối lượng, tích lực của các hạt
thuộc cả ba họ. Mỗi loại quark mang ba tích lực mạnh
khả dĩ được gọi văn vẻ là ba tích màu, tượng trưng
cho giá trị bằng số của ba tích lực mạnh. Các tích
yếu thực chất là “thành phần thứ ba” của isospin
yếu.
Họ
I |
Hạt |
Khối
lượng |
Điện
tích |
Tích
yếu |
Tích
mạnh |
Electron |
0,00054 |
-1 |
-1/2 |
0 |
Neutrino-eclectron |
<
10-8 |
0 |
1/2 |
0 |
Quark
u |
0,0047 |
2/3 |
1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Quark
d |
0,0074 |
-1/3 |
-1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Họ
II |
Hạt |
Khối
lượng |
Điện
tích |
Tích
yếu |
Tích
mạnh |
Muon |
0,11 |
-1 |
-1/2 |
0 |
Neutrino-muon |
<
0,0003 |
0 |
1/2 |
0 |
Quark
c |
1,6 |
2/3 |
1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Quark
s |
0,16 |
-1/3 |
-1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Họ
III |
Hạt |
Khối
lượng |
Điện
tích |
Tích
yếu |
Tích
mạnh |
Tau |
1,9 |
-1 |
-1/2 |
0 |
Neutrino-tau |
<
0,033 |
0 |
1/2 |
0 |
Quark
t |
189 |
2/3 |
1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Quark
b |
5,2 |
-1/3 |
-1/2 |
đỏ,
lục, lam |
Mặc dù có những điểm chung, nhưng việc
xem xét bốn lực cơ bản lại đặt ra nhiều câu hỏi
mới. Trước hết, tại sao lại là bốn lực? Tại sao không
phải là năm, là ba hay thậm chí chỉ là một lực duy
nhất? Tại sao các lực lại thể hiện những tính chất
rất khác nhau như vậy? Tại sao các lực hạt nhân mạnh
và yếu lại bị buộc chỉ đứng hoạt động ở mức
vi mô, trong khi các lực hấp dẫn và điện từ lại có
tầm tác dụng vô hạn? Và cũng tại sao, cường độ
của bốn lực đó lại khác biệt nhiều như vậy?
Để bạn có được một ý niệm về sự
khác biệt đó, hãy tưởng tượng mỗi tay bạn đều
giữ một electron và cố đưa chúng lại gần nhau. Hai
hạt tích điện và giống hệt nhau này sẽ hút nhau bởi
lực hấp dẫn và đẩy nhau bởi lực điện từ. Vậy
lực nào sẽ thắng thế? Các electron sẽ hút lại gần
nhau hay đẩy nhau ra xa? Tất nhiên là lực đẩy sẽ
thắng thế vì lực điện từ mạnh hơn lực hấp dẫn
tới một triệu tỷ tỷ tỷ tỷ (1042) lần. Và nếu như
cơ bắp ở tay phải bạn tượng trưng cho lực hấp
dẫn, thì khi đó để tượng trưng cho lực điện từ, cơ
bắp tay trái bạn phải kéo dài tới tận bên ngoài biên
giới tận cùng của Vũ trụ mà ta quan sát được! Lý do
duy nhất để giải thích tại sao lực điện từ không
lấn át lực hấp dẫn trong thế giới bao quanh chúng ta là
bởi vì phần lớn các vật được tạo bởi lượng điện
tích dương và âm ngang nhau, do đó lực điện từ triệt
tiêu lẫn nhau. Trong khi đó, lực hấp dẫn chỉ là hút,
nên không có sự triệt tiêu như thế: càng có nhiều
vật chất thì lực hấp dẫn chỉ càng mạnh thêm. Hơn
thế nữa, về bản chất lực hấp dẫn là một lực
cực yếu. (Điều này giải thích tại sao khẳng định
bằng thực nghiệm sự tồn tại của graviton là một
việc rất khó. Do vậy, việc tìm kiếm cái bó nhỏ
nhất đó của lực yếu nhất này quả là một thách
thức). Thực nghiệm cũng đã chứng tỏ được rằng
lực mạnh lớn gấp một trăm lần lực điện từ và
lớn gấp một ngàn lần lực yếu. Và ở đây, một
lần nữa, một câu hỏi được đặt ra là:
Do đâu mà Vũ trụ chúng ta lại có những đặc điểm
đó ?
Đây không phải là câu hỏi được sinh
ra từ sự triết lý bàn trà kiểu như tại sao một số
chi tiết lại xảy ra theo cách này mà không theo cách khác.
Vấn đề là ở chỗ Vũ trụ sẽ khác
đi rất nhiều nếu ta làm thay đổi, dù chỉ là
tí chút, những tính chất của vật chất và các hạt tương
tác. Ví dụ, sự tồn tại của các hạt nhân bền vững
tạo nên hơn một trăm nguyên tố trong Bảng tuần hoàn
phụ thuộc một cách sít sao vào tỷ số giữa cường độ
của lực hạt nhân mạnh và cường độ của lực điện
từ.
Thực vậy, lực điện
từ giữa các proton bị giam bên trong hạt nhân
làm cho chúng đẩy nhau, trong khi đó, thật may mắn, lực
hạt nhân mạnh tác dụng giữa các hạt quark tạo nên chúng
lại thắng lực đẩy này và giữ chặt các proton lại
với nhau. Nhưng chỉ cần một thay đổi nhỏ trong cường
độ tương đối của hai lực đó là sự cân bằng
giữa chúng sẽ bị phá vỡ và có thể sẽ làm cho phần
lớn các hạt nhân nguyên tử bị phân rã. Một ví dụ
khác: nếu khối lượng của electron lớn hơn một chút,
các electron và proton sẽ có xu hướng kết hợp với nhau
để tạo thành neutron, khi đó thì nguyên tử hydrogen
(nguyên tố đơn giản nhất trong Vũ trụ với hạt nhân
chỉ gồm một proton duy nhất) sẽ biến mất và do đó làm
cho quá trình sản xuất ra các nguyên tố phức tạp hơn
bị ngừng trệ. Các ngôi sao chỉ tồn tại được là
nhờ vào sự tổng hợp các hạt nhân trong lòng của chúng,
với sự thay đổi này, cũng sẽ không còn các ngôi sao
nữa.
Ở đây cường đồ của lực
hấp dẫn cũng đóng vai trò quan trọng. Mật độ
lớn của vật chất trong lõi của các ngôi sao có tác
dụng duy trì lò lửa hạt nhân trong đó và dẫn tới
sự phát sáng của các ngôi sao. Nếu như lực hấp dẫn
mạnh hơn một chút, lõi của các ngôi sao sẽ hút mạnh
hơn và do đó sẽ làm tăng nhịp độ diễn ra các phản
ứng tổng hợp hạt nhân. Cũng giống như các bó đuốc
sáng sẽ tiêu thụ nhiên liệu nhanh hơn một ngọn nến
cháy chậm rãi, nếu nhịp độ xảy ra các phản ứng
tổng hợp hạt nhân gia tăng, thì các ngôi sao như Mặt
Trời của chúng ta sẽ tắt nhanh hơn và do đó việc
tạo thành sự sống như chúng ta đã biết sẽ hoàn toàn
là chuyện đáng ngờ. Trái lại, nếu lực hấp dẫn
yếu hơn một chút, vật chất sẽ phân tán và do đó
sẽ không có các ngôi sao cũng như chẳng có các thiên hà.
Những ví dụ trên còn có rất nhiều, nhưng
ý tưởng này đã là rõ ràng: Vũ trụ của chúng ta như
nó hiện nay là bởi vì vật chất và các tương tác
của chúng có những tính chất như chúng đang có. Nhưng
liệu có một giải thích khoa học cho câu hỏi: Tại sao
chúng lại có những tính chất đó?
Trích từ Giai điệu dây và Bản
giao hưởng vũ trụ (The
Elegant Universe) của Brian Greene do Phạm Văn Thiều dịch
|