Những bài cùng tác giả
In fact, we are all the children of broken symmetry
(Thực ra, tất cả chúng ta đều là những
đứa con của nguyên lý đối xứng bị phá vỡ)
Công bố báo chí của Ủy ban Nobel trong dịp trao giải Nobel 2008 cho ba nhà
vật lý học Yoichiro Nambu, Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa.
L’asymétrie c’est la vie ! (Bất đối xứng là nguồn sống !)
Louis Pasteur
1- Phương trình Dirac: Spin và Phản vật chất
Hạt điện electron, thành phần cơ bản của vật chất ra đời và tràn đầy vũ trụ
từ thủa Nổ Lớn (Big Bang), cái
hạt cô đơn
mà ngày đêm chúng ta giao tiếp từ ánh sáng đèn lân quang thời xa xưa đến
công nghệ thông-truyền tin tân kỳ ngày nay với điện thoại di dộng (bốn tỷ
chiếc đang lưu hành trên trái đất), máy vi tính, truyền thanh, truyền hình,
phim ảnh số, iPod... Có lẽ chỉ vì electron lúc nào cũng ở trong ta và cạnh
ta trong mọi khía cạnh của cuộc sống như nước với cá nên vô hình trung ta
không ý thức hết tác động thường xuyên của nó. Ở trong ta thực không ngoa vì
tế bào và gen DNA của da thịt con người đều là phân tử, chuỗi tập hợp của
nguyên tử do trao đổi electron mà thành. Electron cũng chính là sợi dây kết
nối liên ngành lý, hóa và sinh học hiện đại. Đề tài mênh mông, khởi đầu năm
1897 khi J. J. Thomson (1856-1940)[2]
thử nghiệm trên ống phóng tia âm cực, phát hiện ra electron với điện tích âm
–e và khối lượng m, hai tính chất cổ điển của một hạt. Paul Dirac
(1902-1984), một thiên tài tầm cỡ Newton và Einstein, khi kết hợp nhuần
nhuyễn thuyết lượng tử với thuyết tương đối hẹp, đúng tám mươi năm qua
(1928) đã khám phá ra định luật cơ bản chi phối sự vận hành của hạt điện này
và của tất cả các fermion khác như neutrino, proton, neutron, quark. Tại sao
kết hợp? Lượng tử là điều dĩ nhiên cho vật thể vi mô như electron, còn
thuyết tương đối hẹp thì tối cần thiết để diễn tả sự dao động với vận tốc
rất cao của nó. Phương trình Dirac là bản giao hưởng tuyệt vời của sự hợp
phối nói trên, nó mở ra hai chân trời kỳ diệu: thứ nhất là electron mang
spin ћ/2, thứ hai là sự
hiện hữu của phản vật chất[3].
Có vật chất thì có phản vật chất, thí dụ hạt phản electron hay positron mang
điện tích dương +e. Spin ћ/2
của electron không hề hé lộ trong vật lý cổ điển mà là một đặc trưng độc đáo
của lượng tử. Spin miêu tả
tính chất quay vòng nội tại
của các
hạt vi mô cơ bản (như trái đất quay chung quanh trục của nó,
nhưng spin tinh tế hơn), spin
electron bằng
ћ/2 =
h/4π nghĩa là
hạt điện này phải quay hai vòng 4π
mới trở lại vị trí ban đầu,
điều không tưởng trong cơ học cổ điển. Ta mường tượng
spin như chiếc kim la bàn nhỏ xíu, một momen từ tạo ra bởi electron mang
điện tích tự quay tròn[4]
quanh trục của nó ‘hai vòng mỗi lần’. Nhờ Faraday, Ampère, Maxwell chúng ta
biết điện với từ tuy hai mà một, điện tích dao động sinh ra từ và ngược lại.
Nếu điện tích –e của electron là gốc nguồn và động cơ mở đường cho
ngành điện tử, thì spin ћ/2 của
nó đóng vai trò tương tự đối với từ trường và khả năng tích lũy cùng ‘trí
nhớ’ của từ tính trong công nghệ. Spin ћ/2 mở
ra một phạm trù mới cho vật lý hiện đại, nhánh ‘spin-điện tử’ đã mang giải
Nobel vật lý 2007 đến Albert Fert và Peter Grünberg với
hiệu ứng Từ trở
Khổng lồ
mà một trong nhiều ứng dụng là bộ nhớ MRAM cùng các đầu đọc, đầu ghi của đĩa
cứng trong máy vi tính hiện thời. Thấu triệt phương trình cơ bản phong phú
của Dirac, ta có thể di chuyển, chồng chập, thao tác và điều khiển electron
và positron theo ý mình mà tạo dựng nên cả một nền công nghệ bán dẫn, siêu
dẫn, vi điện tử, quang điện tử, spin-điện tử, vật liệu nano tinh tế ngày nay
mà điện thoại và máy vi tính di động tân kỳ chỉ là tảng băng nổi. Như J. A.
Wheeler ước tính, một phần ba tổng sản lượng kinh tế của cường quốc số một
hiện nay có gốc nguồn từ những ứng dụng trực tiếp của công nghệ lượng tử,
minh họa biết bao ứng dụng thực tiễn trong đời sống con người hầu hết khởi
đầu từ những công trình nghiên cứu thuần cơ bản.
Nếu chúng ta từng xúc động đến sững sờ trước một áng thơ
tiên của trái tim gửi người đồng điệu thì phương trình Dirac là một sáng tạo
thần kỳ của trí tuệ trao tặng cho nhân loại, kết nhụy bản hôn phối huyền
diệu giữa lượng tử và tương đối hẹp. Mời bạn đọc chiêm ngưỡng phương trình
(iћγμ∂μ
– mc)Ψ(x) = 0 khắc trên cẩm thạch trong đại chủng
viện Westminster ở London, nơi đăng quang và yên giấc của hoàng gia và các
vĩ nhân Anh quốc[6].
Mỗi ký hiệu trong phương trình đều mang một ý nghĩa đặc thù: Hằng số Planck
h = 2πћ tượng trưng cho lượng tử. Vận
tốc ánh sáng c, thời gian t và không gian ba chiều x, y, z gói ghém
trong bốn tọa độ không-thời gian xμ (μ =
0,1,2,3), x0 = ct, x1 = x, x2 = y, x3
= z và đạo hàm ∂μ ≡ ∂/∂xμ
đối với xμ, tất cả là biểu
tượng của thuyết tương đối hẹp. Dirac đã độc sáng ra bốn ma trận γμ
để nối kết hai lý thuyết trên qua căn số của toán tử
d’Alembertien diễn tả năng lượng bình phương E2 = |k|2c2
+ m2c4 = – c2(i(|k| – mc)(i|k|
+mc) của thuyết tương đối hẹp đi vào thế giới vi mô của lượng tử[7].
Trường hợp đặc biệt E = mc2 không áp dụng được vì
electron dao động với vận tốc rất cao[8].
Bạn đọc tinh ý nhận ra căn số (i(|k| – mc) thấp thoáng trong phương
trình (iћγμ∂u
– mc)Ψ(x) = 0. Biến số x trong Ψ(x) chỉ định bốn tọa độ không-thời
gian: x ≡ xμ. Hệ quả vật lý của phương
trình là sự hiện hữu tất nhiên của spin[9]
và hai dấu cộng trừ của E = ± (|k|2c2+
m2c4)½ chính là con đường đưa đến
phản vật chất, khiến bao người khi lần đầu tiếp cận chẳng khỏi ngỡ ngàng như
lạc đến đào nguyên! Nghiệm số của phương trình Dirac là spinor Ψ(x) mang bốn
thành phần, nó kết đọng thông tin và đặc tính lượng tử của electron và
positron. Bốn thành phần của spinor mới đủ để diễn tả hai khía cạnh:(i)
trạng thái quay vòng đối ngược chiều nhau spin up↑ và spin down↓ của
electron, tựa như trái đất quay từ đông sang tây hay ngược lại, (ii) hạt
electron và phản hạt positron phải gắn kết như bóng với hình. Chính cái spin
up, spin down là nền tảng của hiệu ứng Từ trở Khổng lồ theo đó điện trở của
vật liệu mang từ tính giảm đi dưới tác động của từ trường. Còn phản vật chất
từ đâu đến? Mỗi nghiệm của phương trình mang năng lượng dương +(|k|2c2+
m2c4)½ thì một nghiệm khác mang năng
lượng âm –(|k|2c2+ m2c4)½
tất yếu phải kèm theo, một hệ quả chẳng sao né tránh khi lấy căn của
E2. Đứng trước sự thể ‘bất đắc dĩ’ của năng lượng âm này,
thiên tài của Dirac tỏa hiện, ông tiên đoán sự hiện hữu của hạt phản
electron qua cái nhìn rất độc đáo: trong vật lý cổ điển ta chỉ có E >
0 như E = mc2. Trái lại trong thế giới vi mô của
vật lý lượng tử, năng lượng của một hạt có thể mất đi hay nhận được từng gói
hν, vậy không có gì ngăn cản hạt khi mất đi quá nhiều gói hν
phải mang năng lượng âm, ngược lại một hạt với E < 0 khi nhận được
nhiều gói hν có thể trở về trạng thái năng lượng dương. Thí dụ trong
đại dương của muôn vàn hạt electron có năng lượng âm và điện
tích âm, nếu ta đủ sức kéo một hạt trong đại dương ấy ra ngoài, tức là đại
dương ấy mất đi một electron mang E < 0, –e. Nhưng mất đi
(tượng trưng bằng dấu –) cái âm thì cũng như nhận được cái dương, –(–) = +,
vậy kết cục là ta thấy xuất hiện một lỗ hổng trong đại dương các electron
mang năng lượng âm nói trên, lỗ hổng đó có điện tích +e và năng lượng
E > 0, nó chính là hạt phản electron hay positron.
Tóm lại, hạt và phản hạt đều có năng lượng dương, chúng có chung khối lượng
nhưng mọi đặc tính khác (điện tích, spin, sắc tích) đều ngược dấu. Ta có
phản lepton, phản nguyên tử. Như vậy có vật chất thì cũng có phản vật chất,
khi giao tụ chúng thành trung hòa và tự triệt tiêu để biến thành năng lượng
thuần khiết, và ngược lại năng lượng cũng tạo ra các cặp vật chất-phản vật
chất. Hạt positron khối lượng m và điện tích +e được Carl Anderson
khám phá ra năm 1932 và Paul Adrien Maurice Dirac, bất tử với phương trình
của ông, năm sau 1933 nhận giải Nobel với Erwin Schrödinger. Máy chụp hình
nổi PET (Positron Emission Tomography) dùng trong y học ngày nay là một ứng
dụng trực tiếp của positron, khi nó hòa tụ với electron sẵn có trong cơ thể
thì cặp positron-electron biến thành tia bức xạ cực kỳ tinh vi để rọi sáng
chi tiết trong não bộ. Hơn nữa khái niệm lỗ hổng nói trên sau này trở thành
một công cụ rất hiệu lực để nghiên cứu sáng tạo trong ngành vật lý chất bán
dẫn với transistor và các thiết bị vi điện tử.

Dirac và Feynman
Nhưng bạn tự hỏi tại sao Dirac lại lấy căn của toán tử
∂μ∂μ+
(mc/ћ)2, đại diện cho năng
lượng bình phương E2 = |k|2c2
+ m2c4 của thuyết tương đối hẹp. Câu hỏi mà
chính Niels Bohr - người khai sáng ra lý thuyết nguyên tử, vị trưởng lão của
trường phái Diễn giải Copenhagen trong cơ học lượng tử, thủ đô xứ Đan Mạch
quê hương của ông trở thành ‘Thánh Địa La Mekke’ đối với các nhà vật lý thời
tiền Thế chiến - cũng đặt ra cho Dirac khi ông đến thành phố này để trao đổi
với Bohr năm 1927 về ý định kết giao lượng tử với tương đối hẹp đang manh
nha trong đầu. Bohr nghĩ (nhầm) và mách cho Dirac rằng sự hợp phối đó năm
trước đã được thực hiện thành công rồi bởi O. Klein và W.Gordon với toán tử
∂μ∂μ + (mc/ћ)2 viết trên,
chẳng còn gì phải lưu tâm. Nhưng cái mà Bohr không ý thức hết mà chỉ có cái
nhìn sâu sắc của Dirac nhận ra, là thuyết tương đối đòi hỏi phải có sự thuần
nhất giữa thời gian t và không gian x, y, z gắn quyện trong một thực tại
không-thời gian bốn chiều Minkowski. Chúng phải ở cùng trên một bình diện.
Phương trình sóng lượng tử của Schrödinger[10]
không có sự đồng nhất tuyến tính nói trên, vế trái phương trình Schrödinger
có đạo hàm bậc nhất của thời gian t, trong khi vế phải lại có đạo hàm bậc
hai của không gian x, y, z. Còn phương trình Klein-Gordon tuy giữ được sự
thuần nhất (đạo hàm bậc hai của cả thời gian lẫn không gian) nhưng lại mất
đi cái tuyến tính đạo hàm bậc nhất của thời gian t, điều mà ngay từ thuở sơ
khai của cơ học lượng tử Schrödinger, Heisenberg, Dirac đã dựa vào như một
tiền đề để phát triển. Đối với Dirac, cái nhất quán và thuần tuý đến căn cơ
là điều tối quan trọng, trong đó toán học giữ vai trò rường cột để suy luận.
Vậy bằng mọi cách Dirac phải lấy căn của phương trình Klein-Gordon để có đạo
hàm bậc nhất cho cả thời gian lẫn không gian, điều mà ông thành công với bốn
ma trận γμ. Khởi đầu chỉ là một đòi hỏi
thuần lý trí, điều kỳ diệu là nó đã mở đường cho cách mạng công nghệ ngày
nay mà người khai phá không ngờ. Ta không khỏi liên tưởng đến số ảo i, căn
của số âm (i2 = –1), sáng tạo vào thế kỷ 16 bởi các nhà bác học Ý
Gerolamo Cardano và Raphaël Bombelli, tác động của số ảo này lan rộng muôn
ngành[11],
mà chính i đã mở hàng cho phương trình Dirac!
Nhà toán học Mark Kac xếp hạng các nhân vật siêu phàm theo
hai lớp. Những anh tài mà công trình của họ người bình thường khác, sau biết
bao nhọc nhằn và một chút duyên may, có thể bén mảng mô phỏng theo. Nhưng có
những thiên tài như nhà ảo thuật, công trình của họ gây kinh ngạc, lạ lùng
với thế tục. Dirac thuộc về lớp sau, sáng tạo huyền diệu của ông tựa như âm
điệu của Amadeus Mozart từ đâu giáng trần. Một ngẫu nhiên là cả hai thiên
tài Einstein và Dirac chỉ mới có 26 tuổi đời khi khám phá ra hai phương
trình nền tảng của vật lý hiện đại E = mc2 và (iћγμ∂μ
– mc)Ψ(x) = 0 từ đó mọi phát triển bây giờ và sau này đều phải dựa
vào như một hệ hình (paradigm) của khoa học nói chung để vươn lên cao nữa.
Cũng như cơ học cổ điển của Gallilei và Newton vẫn tiếp tục là nền tảng của
vật lý mà hai thuyết tương đối cùng lượng tử đã dựa vào để phát triển và đưa
ta đến hiểu biết ngày nay.
2- Đường
lên Lượng Tử
với hạt cơ bản
2a- Gói năng lượng sơ
đẳng.
Vào cuối thế kỷ thứ 19, có một mâu
thuẫn giữa một bên là lý thuyết điện từ và nhiệt động học - hai trụ cột của
vật lý thời ấy - bên kia là thực nghiệm đo lường về cường độ bức xạ nhiệt
của vật đenật đen[12].
Thực thế, lý thuyết trên đưa đến một hệ quả phi lý là tổng năng lượng phóng
xạ bởi vật đen phải vô hạn, nôm na như ngồi trước một bếp sưởi hồng,
bất kỳ nhiệt độ cao thấp ra sao ta sẽ bị tan biến hết. Max Planck bằng một
hành động hầu như tuyệt vọng đưa ra giả thiết theo đó các vật thể khi dao
động với tần số ν thì năng lượng E phát ra phải theo từng ‘gói‘ rời
rạc như 1hν, 2hν, 3hν ... chứ không tuôn chảy liên tục.
Kỳ lạ thay năng lượng phun ra từng gói từng chùm. Cho bất kỳ một tần số sóng
ν và một năng lượng X trung bình quy định bởi nhiệt động học cổ điển, ta chỉ
cần p gói hν là đủ đạt tới X rồi, p(hν) ≈ X , những gói từ
(p+1) hν trở lên vì vượt quá đóng góp trung bình nên bị khử mạnh và
làm cho tổng năng lượng trở thành hữu hạn. Điểm then chốt mà Planck giả
thiết là một vật vi mô chỉ có thể tiếp nhận hay mất đi những đơn vị năng
lượng hν. Einstein là người đầu tiên dùng giả thuyết gói ánh sáng
hν để diễn giải hiện tượng quang điện. Đặc tính nội tại rời rạc của
lượng tử được Bohr chấp nhận để sáng tạo ra thuyết nguyên tử, tiếp theo
Louis de Broglie vén mở lưỡng tính sóng-hạt của mọi vật thể vi mô, và cơ học
lượng tử hình thành với nguyên lý bất định Heisenberg và phương trình sóng
Schrödinger. Giả thuyết Planck do đó không còn là giả thiết nữa mà trở thành
nền tảng của tri thức mà dấu ấn ngày càng in đậm trong sinh hoạt con nguời
từ khoa học, công nghệ rồi lan rộng sang nhiều khía cạnh của triết học, văn
hóa. Hằng số Planck h trong E = hν có gốc nguồn ở tiếng
Đức chữ Hilfe (phụ trợ), chi tiết này nói lên cái khiêm tốn của một nhà bác
học lớn. Do tính toán qua hằng số rất nhỏ h mà ra, danh từ vi mô
trong khoa học tự nhiên được hiểu như những vật chất kích thước bằng hay nhỏ
hơn một phần tỷ mét, hay nano-mét. Như vậy một nguyên tử rộng dài khoảng
nano-mét có thể được coi như ngưỡng cửa bắt đầu đi sâu xuống thế giới vi mô
trong đó bao gồm những hạt nhỏ hơn nữa như electron cùng proton và neutron,
hai thành phần của hạt nhân nguyên tử.
2b- Hạt cơ bản.
Ngược dòng thời gian, khái niệm về hạt cơ bản (nghĩa là những đơn vị vi mô
nhỏ bé nhất không sao chia cắt cho nhỏ hơn được nữa) cấu tạo nên vạn vật đã
từ lâu tiềm ẩn trong ý thức nhân loại. Nhưng câu hỏi là làm sao các hạt sơ
đẳng gắn bó được với nhau bởi những lực nào để tạo nên vật chất? Con đường
tìm kiếm những định luật cơ bản chi phối sự cấu tạo vạn vật bởi các hạt sơ
đẳng là cả một quá trình gian lao nhưng say đắm trong cuộc vươn lên điển
hình của loài người thôi thúc bởi cái Đẹp và cái Thật. Cái được hiểu là hạt
cơ bản biến đổi với thời gian. Mới cách đây trăm năm, phân tử được coi là
hạt cơ bản nhỏ bé nhất của vật chất, rồi phân tử lại do nhiều nguyên tử gắn
bó với nhau qua trao đổi các điện tử electron của chúng mà thành. Sau đó
nguyên tử cũng chỉ do hạt nhân và electron dao động chung quanh tạo lập, rồi
đến hạt nhân cũng chẳng qua là một phức hợp của thành phần nhỏ hơn là proton
và neutron, cuối cùng proton và neutron cũng được tạo ra bởi hai hạt cơ bản
gọi là quark u, d (viết tắt up, down), hai quark này tương tác với nhau qua
sự trao đổi keo (gluon) mà làm nên proton hay neutron. Ðịnh luật
tương tác mạnh của các quark để gắn kết chúng trong proton và neutron
mang tên sắc động lực học lượng tử vay mượn chữ điện động
lực học lượng tử, cái này diễn tả tuơng tác điện từ trong thế giới vi mô
của electron. Điện động lực học lượng tử là nền tảng cơ bản cho sự phát
triển kỳ diệu của công kỹ nghệ thông-truyền tin hiện đại với vi điện tử,
quang điện tử, spin-điện tử. Hai danh từ sắc và điện để chỉ
định hai tính chất lượng tử riêng biệt, ba sắc tích (color charge)
của quark và một điện tích −e của electron. Tên quark do nhà
vật lý giải Nobel 1969 Murray Gell-Mann - vì túng danh từ thông dụng - mượn
câu bí ẩn ‘Ba quark cho Muster Mark’ của nhà văn James Joyce để đặt tên cho
ba thành phần cơ bản của vật chất, hạt mà Gell-Mann tiên đoán với dụng cụ
toán học là nhóm đối xứng SU(3), chính con số 3 quark này gợi cho Gell-Mann
chữ quark. Trong sắc động lực có gluon mang sắc tích trao đổi giữa quark,
còn trong điện động lực có photon trao đổi giữa electron. Tóm lại hạt cơ bản
của vật chất bất động hay sinh động là quark và lepton, bốn thôi không
nhiều[13],
hai quark u, d và hai lepton electron, neutrino. Ngoài sắc tích, hai quark
u, d còn mang điện tích +(⅔)e cho u và –(⅓)e cho d, cũng như
electron mang điện tích –e, còn neutrino thì trung hòa, cả hai lepton
electron và neutrino cũng như photon đều không có sắc tích. Là hạt cơ bản kỳ
lạ nhất trong bốn hạt, neutrino vì tương tác quá ư nhỏ yếu với vật chất nên
bay trong vũ trụ với vận tốc ánh sáng c như vượt chân không, chúng
xuyên suốt trái đất gần như chẳng để lại một dấu ấn gì. Thực là một sứ giả
độc đáo nối cầu giữa thế giới vĩ mô vô cùng lớn rộng của thiên hà vũ trụ với
thế giới vi mô muôn vàn nhỏ bé của hạ tầng nguyên tử. Neutrino nhẹ nhất
trong bốn hạt cơ bản (khoảng một phần tỷ khối lượng electron) và nhiều nhất
trong trời đất, mỗi giây đồng hồ trên diện tích một cm² của làn da chúng ta
có chừng sáu mươi tỷ hạt neutrino từ mặt trời bay tới, không kể từ muôn vàn
vì sao khác! Nếu từng ấy những hạt photon mà chạm tới chúng ta, chắc hẳn con
người không thể sinh tồn dưới trạng thái hiện hữu. May thay neutrino là hạt
chỉ có tương tác yếu với quark u, d và electron,
và chúng ta cũng như mọi vật thể khác đều do ba (trong bốn) hạt cơ bản là
quark u, d và electron tạo thành. Vật chất đều do nguyên tử tạo thành, nhân
lõi của nguyên tử do quark gắn bó bởi lực mạnh mà ra,
chúng trao đổi gluon với nhau. Với lực điện từ, electron trao
đổi photon với nhau và với proton để hợp thành nguyên tử, phân tử và vật
liệu nói chung. Lực cơ bản thứ ba trong tự nhiên là lực yếu (chi phối
phóng xạ nhân lõi nguyên tử và sự vận hành của neutrino) do tác động của W
và Z. Hai tương tác mạnh và yếu chỉ vận hành trong thế giới vi
mô.Thành phần cơ bản của vạn vật là fermion mang spin ћ/2
gồm có quark và lepton tựa như những viên gạch của
lâu đài vật chất, còn boson spin 1ћ (photon, gluon, W, Z) tựa như hồ
vữa để gắn những viên gạch. Boson làm trung gian mang thông điệp cho fermion
tương tác với nhau qua trao đổi photon (lực điện từ), gluon (lực mạnh),
W và Z (lực yếu). Ba lực lượng tử này được diễn tả vô chừng thoả đáng
trong Mô hình Chuẩn (Standard Model), một lý thuyết nhất quán đã vượt qua
tất cả các thử thách thực nghiệm một cách vẻ vang, những tiên đoán suy ra từ
Mô hình Chuẩn đều phù hợp và chính xác đến ngạc nhiên với kết quả thực
nghiệm, mang hơn hai chục giải Nobel cho ngành vật lý hạt cơ bản trong
khoảng 30 năm gần đây, không kể năm nay 2008.
Còn lại lực cơ bản thứ tư kéo giữ chúng ta trên mặt đất, đó
là trọng lực. Các định luật của trọng lực - diễn tả bởi thuyết tương đối
rộng- và của lượng tử không tương thích với nhau ở những điều kiện cực độ
khi hai thế giới vi mô và vĩ mô cận kề như trong trung tâm sâu thẳm của lỗ
đen, trong trạng thái vũ trụ ở kỷ nguyên Planck (giây phút ban đầu của Big
bang với nhiệt độ kinh hoàng, không gian cực nhỏ, năng lượng cực lớn), hoặc
trong các máy gia tốc năng lượng cao. Ở những điều kiện cực hạn ấy,
không-thời gian cong uốn trơn tru của thuyết tương đối rộng lại xung đột sâu
sắc nhất với cái sôi động, thăng giáng lượng tử, các phương trình của hai
thuyết khi kết hợp cho ra những đáp số vô hạn, phi lý. Mô hình Chuẩn không
thể giải đáp cái mâu thuẫn này và thuyết Siêu dây (Superstring) hay thuyết
Màng (M theory), về nguyên tắc, nhằm dung hòa và mô tả nhất quán tất cả bốn
tương tác cơ bản trong cả hai thế giới cực lớn của vũ trụ bao la và cực nhỏ
của hạ nguyên tử, nhằm thống nhất mọi điều về một mối. Đó là vấn đề hắc búa
số một của vật lý ngày nay. Nhưng cần nhấn mạnh là mặc dầu có những tiến bộ
ngoạn mục, nhiều khía cạnh của siêu dây còn xa mới sáng tỏ và nhất là
chưa/không có một tiên đoán nào của nó được chứng nghiệm dẫu gián tiếp.
Edward Witten - chuyên gia hàng đầu của thuyết siêu dây, nhà vật lý được huy
chương Fields về toán, không ai, kể cả những giải Nobel, có công trình được
trích dẫn nhiều bằng ông - một lần tuyên bố: thuyết siêu dây là một bộ phận
của vật lý thế kỷ 21 đã tình cờ rơi xuống thế kỷ 20, ngụ ý có lẽ cần biết
bao năm nữa mới được hoàn tất! Cơ sở toán học của nó quá phức tạp, các
chuyên gia siêu dây phải tự mình mò mẫm sáng tạo, không như Einstein đã sẵn
có hình học cong Riemann làm nền để khám phá ra thuyết tương đối rộng.
2c- Kích thước trung mô.
Thế giới vi mô vận hành theo những định luật của vật lý lượng tử, nhưng ảnh
hưởng của nó vượt xa ra ngoài thế giới hạ nguyên tử chính vì trong cõi vĩ mô
lớn rộng (từ thiên hà tinh tú, mặt trời, đến sinh vật, thực vật, khoáng vật
trên trái đất) tất cả đều được tạo thành bởi những hạt cơ bản. Những định
luật lượng tử chi phối và điều hành “ngầm” các đặc trưng của vật chất ở thể
khí, lỏng, đặc, kim loại, cách điện, bán dẫn, siêu dẫn. Ngành vật lý liên
quan đến những đề tài đó mang tên gọi vật lý thống kêont>[14]
mà nhiệt động học là trường hợp điển hình trong thế giới trung mô ở giữa hai
thái cực vô cùng nhỏ và vô cùng lớn. Đặc biệt là các hạt có spin ћ/2
(fermion nói chung) như quark,
electron, neutrino phải tuân thủ ‘nguyên lý loại trừ’ của Pauli theo đó hai
hạt fermion đồng nhất không thể cùng trong một trạng thái. Khi chúng ở chung
một điểm không gian thì chúng phải có hoặc vận tốc hoặc chiều quay của spin
khác nhau; nếu cùng vận tốc thì spin của chúng phải quay ngược chiều hoặc
không ở chung một vị trí. Không thể có hai fermion chiếm lĩnh cùng một trạng
thái xác định bởi năng lượng, spin, vận tốc, vị trí, sắc tích. Đó là những
hạt có cá tính biệt lập, sự phân phối trạng thái các hạt fermion này phải
tuân theo phép thống kê Fermi-Dirac mà ‘nguyên lý loại trừ’ là hệ quả. Chính
‘nguyên lý loại trừ’ của hạt mang spin ћ/2
giải thích tại sao cũng với từng ấy electron trong
cùng một thể tích mà có những vật liệu cái thì cách điện, cái thì dẫn điện,
tại sao quark mang sắc tích hợp thành proton, neutron và chúng cùng
với electron tạo ra các nguyên tử, những nguyên tử này khi gần nhau thì
những electron của chúng lại tách biệt mà không kéo nhau cùng suy sập trong
một trạng thái đông đặc như ‘súp’ của thuở Big Bang ban đầu. Trái ngược với
fermion đơn độc, boson lại ưa thích song hành, nó dễ dàng kết hợp hòa đồng
với boson khác càng nhiều càng tốt trong cùng một trạng thái, tập thể của
chúng tuân theo phép thống kê Bose-Einstein. Cũng chính vì đặc tính hòa đồng
này của tập thể các boson mà ta có laser, có hiện tượng siêu lỏng, siêu dẫn
(một công nghệ của thế kỷ 21), có chất đông đặc Bose-Einstein tân kỳ kết hợp
hàng triệu nguyên tử trong cùng một trạng thái mà những ứng dụng trong công
nghệ nano là một thí dụ. Hai tính chất trái ngược nhau giữa fermion và boson
là một đặc trưng của lượng tử mà phương trình Dirac với phép phản giao hoán[15]
của ma trận γμ và spinor giữ vai trò chủ
yếu. Mối liên hệ kể trên giữa spin và thống kê là một trong vài định lý sâu
sắc nhất của vật lý nói chung mà Wolfgang Pauli - người tiên đoán ra hạt
‘ma‘ neutrino, tên hạt này lại do Enrico Fermi đặt ra - chứng minh năm 1940.
Ngày nay nhìn lại, ta chẳng khỏi sững sờ nhận thấy trong khoảng thời gian
tương đối ngắn, chỉ hơn mười năm ở Âu châu trước thời phát xít, đã xuất hiện
biết bao cây đại thụ đặt nền tảng cho thuyết Lượng tử hiện đại mà dấu ấn
ngày càng in đậm!
3- Lược thuật về
thuyết Tương đối
Sau vòng dạo chơi trong thế giới vi mô của Lượng tử, mời bạn
đọc quay bước sang thăm miền đất mênh mang của Tương đối, hai ngọn hải đăng
của thế giới vi mô và vĩ mô hội tụ trong phương trình Dirac và nhiều nữa.
3a- Tương đối đặc biệt
(hẹp).
Ai trong chúng ta khi đi máy bay cửa
sổ đóng kín và không gặp bão lay động mà có thể cảm thấy mình di chuyển với
vận tốc khoảng ngàn cây số trong một giờ ? Khoảng bốn trăm năm trước đây,
Galilei cũng đưa ra một thí dụ tương tự, mở đầu cho nguyên lý tương đối
mang tên ông: trong hầm kín mít không giao tiếp gì với thế giới bên ngoài
của một chiếc tàu thủy di chuyển đều đặn với vận tốc v cố định, ta
hãy quan sát những con bướm bay khắp phía và những giọt nước tí tách rơi.
Nay để tàu đứng yên, ta thấy bướm vẫn bay và nước vẫn rơi hệt như trước,
chẳng có gì thay đổi. Rồi tàu lại di chuyển đều đặn, nhưng với vận
tốc và chiều hướng khác, bướm vẫn bay và nước vẫn rơi như khi tàu dừng ở
bến. Nói một cách khác: những định luật miêu tả các hiện tượng thiên nhiên
(bướm bay, nước rơi) không chút thay đổi trên tàu di chuyển đều đặn
(bất kỳ vận tốc và chiều hướng nào) kể cả tàu dừng ở bến (v = 0). Tĩnh hay
động chỉ là chuyện tương đối mà Galilei tóm tắt trong một câu ’di
chuyển đều đặn cũng như không’.Trong hai hệ quy chiếu, một bên là bến đứng
yên (tọa độ x,y,z,t), một bên là tàu di động (tọa độ x’, y’, z’, t’), các
định luật miêu tả thiên nhiên đều giống hệt nhau, hay f(x,y,z,t) =
f(x’,y’,z’,t’) hàm số f tượng trưng cho một định luật vật lý nào đó. Khi
nguyên lý này áp dụng cho điện-từ để diễn tả vận tốc ánh sáng c không
thay đổi trong tất cả các hệ quy chiếu di chuyển đều đặn thì f(x,y,z,t) ≡
(x² + y² + z²) – (ct)². Các tọa độ (x,y,z,t) và (x’, y’, z’, t’) của
hai hệ quy chiếu phải liên hệ ra sao để cho đại lượng s² ≡ (x² + y² + z²) –
(ct)² = (x’² +y’² +z’²) - (ct’)² không thay đổi. Sự bất biến
của s² diễn tả hiện tượng vật lý theo đó vận tốc ánh sáng đo lường trên hai
hệ quy chiếu đều bằng nhau và là c ~ 300000 km/s. Hiện tượng này do
Michelson và Morley phát hiện năm 1887, nó trái ngược với trực giác và định
kiến của mọi người trước năm thần kỳ 1905 vì họ tưởng (nhầm) rằng nếu vận
tốc ánh sáng đo trên bến là c thì vận tốc ánh sáng đo trên tàu phải
là c ± v (tùy theo ánh sáng chạy song song cùng chiều hay ngược
chiều với tàu). Cũng vậy, người trên tàu khi đo vận tốc ánh sáng sẽ thấy vận
tốc đó phải khác với vận tốc ánh sáng truyền đi trên bến, sự khác
biệt đó cho ta v mà Michelson và Morley không sao đo lường thấy.
Với thời gian phổ quát duy nhất của Newton (t = t’) thì s²
không sao bất biến được và đã làm đau đầu bao nhà khoa học. Điểm then chốt
của thuyết tương đối hẹp là các vị Lorentz, Poincaré, Einstein mỗi người một
cách đã phát kiến ra hệ số ρ = 1 ⁄ √(1− v² ⁄c²)
≥ 1 chìa khoá mở đường vô cùng quan trọng cho cơ học tương đối tính[16].
Nhưng tuyệt vời hơn cả là hai kho tàng mà Einstein tặng cho nhân loại, trước
hết năng lượng và khối lượng tuy hai mà một qua phương trình E =
ρmc² của thế kỷ, liên
kết năng lượng E khổng lồ với khối lượng m nhỏ bé[17].
Thông điệp thứ hai, sâu sắc và kỳ lạ, là chẳng có một thời gian tuyệt đối và
phổ quát trong một không gian biệt lập với thời gian. Có muôn ức thời gian
(t’ và t dẫu khác nhau nhưng cả hai đều chỉ định thời gian trong hai hệ quy
chiếu) với nhịp độ nhanh chậm không đồng đều, khoảng cách thời gian của mỗi
hệ quy chiếu tùy thuộc vào vận tốc chuyển động của hệ ấy. Mỗi thời-điểm phải
gắn quyện với mỗi không-điểm trong một thực tại bốn chiều gọi là thế giới
Minkowski để diễn tả một sự kiện, cái ‘lúc nào’ phải đi với cái ‘ở
đâu’. Khoảng cách thời gian của bạn khác của tôi, ở mỗi điểm không gian lại
gắn liền một đồng hồ đo thời gian với nhịp điệu tích tắc khác nhau. Sở dĩ
bạn và tôi tưởng rằng chúng ta chia sẻ một thời gian phổ quát, chỉ vì cộng
nghiệp con người trong cái không gian quá nhỏ bé so với vũ trụ, bạn và tôi
đâu có xa nhau gì, vận tốc tương đối giữa chúng ta thấm gì so với vận tốc
ánh sáng (v²⁄c² « 1, ρ ≈ 1). Hơn nữa không có
mũi tên thời gian lạnh lùng trôi của trực giác mà cơ học cổ điển Newton thừa
nhận, cũng không có khái niệm hiện tại, cái bây giờ chẳng thể xác
định và giữ vai trò ưu tiên đặc thù nào hết. Đã không có hiện tại thì nói
chi đến quá khứ và tương lai, đó là nội dung triết học quá ư kinh ngạc của
thuyết tương đối hẹp và rộng trong nhận thức về thời gian, nó không phải là
mũi tên trôi một chiều từ quá khứ đến tương lai mà chỉ là một trong bốn
thành phần của thực tại mang tên gọi không-thời gian chẳng cứng nhắc mà đàn
hồi. Diễn tả hàm súc nhất về nhận thức này có lẽ nằm trong bức thư Einstein
gửi cho con trai của Besso[18]
khi nghe tin bạn mất. Bức thư viết: ‘’Vậy bạn đã trước tôi
một chút giã từ cái thế gian lạ lùng này. Điều đó chẳng nghĩa lý gì. Đối với
chúng ta, những nhà vật lý mang xác tín, sự chia cách quá khứ, hiện tại và
tương lai chỉ có giá trị của một ảo tưởng, dẫu nó dai dẳng đến thế nào’’.
3b- Tương đối tổng quát
(rộng).
Một
ngày tháng Mười Một năm 1907 đang ngồi trong Phòng Đăng ký Bằng Sáng chế của
thành phố Bern, Einstein chợt nẩy ra một ý tưởng mà ông coi như mãn nguyện
nhất trong đời: một người rớt từ trên cao xuống không cảm thấy sức nặng
của mình. Ngày nay phi hành gia lơ lửng trong những hỏa tiễn thám hiểm
vũ trụ là hình ảnh quen thuộc của hiện tượng vô trọng lực. Bất
kỳ mỗi điểm trong một thang máy đứt dây và rơi tự do đều có thể coi như một
hệ qui chiếu quán tính trong đó trọng lực như bị xóa đi, phản ánh ý
tuởng sung suớng nhất trong đời Einstein. Thêm bước nữa, ông mường tượng một
nơi xa lánh tất cả mọi thiên hà tinh tú, một không gian ở đó vắng mặt trọng
trường. Trong cái không gian vô trọng lực ấy, có một hòm mà ta đẩy mạnh
lên cao với một gia tốc nào đó, ta thấy mọi vật ở trong hòm bị
đẩy rơi ngược chiều xuống thấp với cùng một gia tốc, giống như
nó bị hút xuống bởi một trọng lực, điều quá quen thuộc trên xe hơi khi ta
bất chợt nhấn mạnh phanh, mọi người như bị kéo về phía trước. Vậy thì vận
chuyển có gia tốc nào khác gì tác động của trọng trường, có một mối liên hệ
mật thiết giữa gia tốc và sức hút của trọng lực. Những tác dụng của một
trọng trường thực có thể như bị xóa bỏ trong một hệ qui
chiếu rơi tự do (gia tốc ≠ 0), hoặc khi ta khảo sát vận chuyển có gia
tốc, một trọng trường ảo như được tạo ra. Câu ‘’di chuyển đều
đặn cũng như không’’ của Galilei, qua ý tưởng sung sướng nhất trong đời của
Einstein, nay biến thành ’’di chuyển không đều đặn chẳng khác gì tác động
của trọng lực’’đã mở đầu một kỷ nguyên mới cho vật lý, nới rộng thuyết tương
đối hẹp sang thuyết tương đối rộng để thay thế thuyết vạn vật hấp dẫn của
Newton, định luật cổ điển này chỉ là truờng hợp xấp xỉ gần đúng của thuyết
tương đối rộng vô cùng chính xác. Hơn nữa còn thêm một nguyên nhân thúc đẩy
Einstein mở rộng thuyết tương đối hẹp vì ông nhận ra có một mâu thuẫn giữa
thuyết này (vận tốc của mọi tín hiệu đều có hạn, kể cả ánh sáng) và
luật cổ điển vạn vật hấp dẫn (trọng lực truyền đi với vận tốc vô hạn
để vạn vật hút nhau tức thì). Vậy bằng cách nào đó sửa đổi luật hấp
dẫn Newton sao cho hòa đồng với thuyết tương đối hẹp, mâu thuẫn nói trên sẽ
tự động được giải đáp.
Lý thuyết tương đối rộng, hay định luật vạn vật hấp dẫn của
Einstein có thể tóm tắt trong một câu: Không-Thời gian chẳng cứng nhắc mà
đàn hồi, hình học Minkowski bốn chiều phẳng lặng của thuyết tương đối hẹp bị
biến dạng thành cong uốn bởi năng-khối lượng của vật chất. Sự phân
phối năng lượng đã tạo ra cấu trúc cong của không-thời gian để vạn vật di
chuyển như một biểu hiện của trọng trường chứ không có sức hút nào giữa
chúng cả. Dưới ánh đèn huyền ảo của thuyết tương đối rộng, hiện tượng vạn
vật hấp dẫn ‘cơ bắp’ của Newton nay tỏa hiện như cảnh tượng cong uốn của
không gian để vạn vật rơi tìm nhau! Thuyết tương đối rộng có thể tóm tắt như
sau: khối lượng áp đặt không-thời gian phải cong đi, còn không-thời gian chi
phối bắt khối lượng phải chuyển động ra sao. Sự vận hành của vật chất (ánh
sáng cũng là vật chất) bởi trọng trường không do một lực cơ bắp nào hết mà
thực ra sự
di chuyển đó lại ‘trây lười nhất’ theo đường trắc địa trong một
không-thời gian bị cong bởi sự hiện hữu và phân phối của vật chất. Đáp lại,
vật chất và năng lượng luôn luôn biến chuyển của chúng cũng tác động tới độ
cong của không-thời gian, và cứ thế tiếp diễn liên hồi vũ điệu giữa cơ học
và hình học. Thuyết tương đối rộng được kiểm chứng vô cùng chính xác bằng
thực nghiệm ngay từ năm 1919 (ánh sáng bị uốn cong bởi mặt trời, cùng với
hiện tượng tuế sai của quỹ đạo hành tinh sao Thủy quay chậm 43’’ trong một
thế kỷ), chứng nghiệm mới đây nhất của thuyết này là Hệ thống Định vị Toàn
cầu (GPS) trang bị các phương tiện vận tải và điện thoại di động. Trên vệ tinh GPS, thuyết tương đối rộng (hay hẹp) bảo cho ta đồng hồ
tích tắc nhanh (hay chậm) hơn so với mặt đất, mà sự chính xác khoảng một
phần ngàn tỷ giây của đồng hồ là điều kiện tối quan trọng cho GPS thành
công.
Mời bạn coi bức thư Einstein gửi ngày mồng 9 tháng giêng năm
1916 cho Karl Schwarzschild, nhà vật lý thiên văn Đức đã đầu tiên giải được
chính xác phương trình của thuyết tương đối rộng mà Einstein công bố tháng
trước: “cái đặc điểm của lý thuyết mới này là không gian và thời gian tự
chúng chẳng có tính chất vật lý gì cả. Nói đùa thôi, giả thử vạn vật trên
đời biến mất, thì theo Newton ta hãy còn một không gian rỗng tuếch phẳng
lặng mênh mang và một mũi tên thời gian lặng lẽ trôi, nhưng theo tôi thì
tuyệt nhiên chẳng còn chi hết, cả không gian lẫn thời gian và vật
chất!”. Không-thời gian chẳng còn là một sân khấu bàng quan trong đó vật
chất vận hành một cách độc lập, không có diễn viên (vật chất) thì sân khấu
(không-thời gian) cũng chẳng còn. Thực là một cuộc cách mạng về tư duy mà
Einstein mang đến cho nhân loại: chính vật chất trong đó có da thịt tâm tư
con người xây dựng ra vũ trụ. Vật chất và không-thời gian chỉ là hai khía
cạnh của một bản thể duy nhất, cái này sinh cái kia, không có cái này thì
cũng chẳng có cái kia. Thông điệp vật lý ấy gói ghém trong phương trình
Einstein Rμν – (½)Rgμν=
(8πG/c4)Tμν,
vế trái là tensơ Ricci mô tả hình học không-thời gian bốn chiều trong đó vận
hành vạn vật, còn vế phải là tensơ năng-xung lượng của vật chất xây dựng nên
cái cấu trúc cong uốn của không-thời gian. Nhà vật lý Nhật bản Yoichiro
Nambu qua bức tranh nửa trào lộng nửa trầm tư minh họa vế trái phương trình
bằng cổng Rashomon xa xưa của một thoáng không gian trang nghiêm thanh thoát
bên bờ suối, vế phải bên kia cầu vương vấn trong cảnh trần ai bởi khói than
nhà máy phản ánh vật chất nặng nề!

3c- Vũ trụ.
Einstein là người trước tiên nhận ra cái toàn bộ chẳng sao tách biệt giữa
vật chất-lực (cái nội dung) và không-thời gian (cái vỏ chứa). Tất cả chỉ là
một mà ông gọi là vũ trụ và khoa học nghiên cứu cái toàn bộ đó mang tên là
vũ trụ học mà nguyên tắc - được ông xây dựng trong một công trình ra đời
tháng Hai năm 1917- vẫn tiếp tục làm nền tảng rọi sáng cho mãi đến ngày nay,
mặc dầu thay đổi nhiều về chi tiết và mô hình ban đầu. Trước hết ông nhận
thấy phương trình của thuyết tương đối rộng không có nghiệm số nào
tương ứng với một vũ trụ vĩnh cửu bất biến với thời gian mà định kiến ngàn
xưa đều tin chắc như vậy, ngay cả với con người cấp tiến như Einstein! Ông
đành thêm vào vế trái phương trình một số hạng Λ gμν
(ông gọi Λ > 0 là hằng số vũ trụ vì nó chẳng có hệ
quả cục bộ nào ở bất kỳ các quy mô lớn hay nhỏ) để có được một nghiệm
số diễn tả vũ trụ ấm êm tĩnh lặng, tuy cong về không gian nhưng lại
phẳng (không thay đổi) với thời gian. Nhưng chỉ vài năm sau
đó, các nhà thiên văn vật lý W. de Sitter (Hà Lan), A. Friedmann (Nga) và G.
Lemaître (Bỉ) khi xem xét toàn diện mười thành phần của phương trình
Einstein đã chứng minh là vũ trụ không những cong về không gian mà cũng cong
cả với thời gian, vậy vũ trụ hoặc giãn nở hoặc co nén chứ không tĩnh tại. Hỗ
trợ quyết định cho phần lý thuyết trên xẩy ra năm 1929 khi nhà thiên văn Mỹ
E. Hubble đo lường quang phổ ánh sáng của các thiên hà và phát hiện chúng
đồng loạt có tần số sóng bị giảm đi so với quang phổ đo trên trái đất. Tương
tự như hiệu ứng Doppler trong âm thanh, theo đó tiếng sáo phát ra trên tàu
chạy xa bến thì người đứng yên trên bến nghe sáo trầm hơn, ngược lại nếu tàu
tiến gần vào bến, tiếng sáo nghe bổng hơn[19].
Vì quan sát thấy tần số ánh sáng giảm, Hubble suy ra là khoảng cách từ chúng
ta tới các thiên hà tỷ lệ thuận với tốc độ của chúng, càng ở xa vận tốc càng
lớn. Như vậy vũ trụ không còn tĩnh lặng mà giãn nở như quả bóng khi ta bơm
hơi vào, một thực tại chẳng sao chối cãi. Sự kiện thiên văn quan trọng hàng
đầu này ngày nay được xác định rất vững vàng bởi nhiều đo lường khác, do đó
hằng số Λ (mà Einstein đưa ra như một tiên đề để giữ
tĩnh lặng cho vũ trụ) chẳng còn cần thiết nữa khiến ông coi đó là sai lầm
lớn nhất trong đời mình. Nhưng cái gì làm vũ trụ dãn nở? Ngày nay nhiều nhà
thiên văn và vật lý cho rằng có thể chính là hằng số Λ.
Ai ngờ cái sai lầm hơn nửa thế kỷ trước nay lại trở nên một thành
viên chủ yếu chiếm ngự đến 74 % năng lượng của hoàn vũ dưới cái tên mới là
năng lượng tối để làm dãn nở vũ trụ, cái năng lượng tối đầy bí
ẩn này chưa ai biết là gì tuy nhiên nó chẳng phải do vật chất tạo thành mà
lại mang đặc tính năng lượng của chân không[20].
Việc tiên đoán sự dãn nở của vũ trụ thực là một kỳ công của thuyết tương đối
rộng.
   
E. Hubble (Mỹ)
G. Lemaître
(Bỉ) A. Friedmann (Nga)
W. de Sitter (Hà Lan)
4- Cơ cấu vạn vật hình thành và hạt Higgs
4a- Mô hình Chuẩn.
Ba tương tác cơ bản ‘phi hấp dẫn’ mang tên Sắc động lực (QCD) và Điện yếu
(Electroweak) trong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt phác họa ở phần 2b là thành
tựu tuyệt vời của bản giao hưởng giữa hai thuyết Lượng tử và Tương đối hẹp.
Thuyết điện yếu thống nhất hai lực thoạt trông rất khác biệt,
đó là lực điện từ quen thuộc trong đời sống hàng ngày và lực yếu (chi phối
sự vận hành của neutrino, phân rã và phóng xạ hạt nhân). Thuật ngữ yếu
tưởng như yếu mềm ít tác động, nhưng thực ra nó chủ chốt điều hành các phản
ứng nhiệt hạch trong các thiên thể, mang ánh sáng cho bầu trời ban đêm.
Abdus Salam,
người Pakistan, cùng với hai người Mỹ Sheldon Glashow và Steven Weinberg đã
phát hiện ra là mặc dầu hai định luật cơ bản điện-từ và yếu có cường độ
tương tác quá khác biệt nhưng thực ra chúng có rất nhiều đặc tính chung và
hơn nữa có thể hòa hợp trong một tương tác duy nhất mà Salam đặt tên là
điện yếu. Thuyết này mang cho đồng tác giả Glashow, Salam, Weinberg giải
Nobel năm 1979.
  
đồng tác giả Glashow, Salam, Weinberg
giải Nobel năm 1979
Sở dĩ có sự khác biệt giữa hai cường độ là vì khối lượng của
hạt photon (tượng trưng cho điện-từ, xin nhớ electron trao đổi photon) bằng
0 mà khối lượng của hai hạt W, Z (tượng trưng cho phân rã yếu, xin nhớ
neutrino trao đổi W, Z) lại quá lớn. Thuyết điện yếu tiên đoán được khối
lượng cùng các đặc tính của hai hạt W, Z và sau đó thực nghiệm kiểm chứng
với độ chính xác tuyệt vời. Sự thống nhất hai hiện tượng điện-từ và yếu
trong cùng một quy luật là cả một bước ngoặt của vật lý ở cuối thế kỷ 20,
tầm quan trọng của nó có thể ví như Maxwell ở cuối thế kỷ 19 đã tổng hợp ba
hiện tượng điện, từ và quang mà công nghệ hiện đại thông-truyền tin khai
thác vô cùng mầu nhiệm. Sự thống nhất này được thực hiện nhờ một cơ chế gọi
là sự Phá vỡ Tự phát tính Đối xứng (Spontaneous Breaking of Symmetry, SBS)
mà người tiên phong mở đường là Yoichiro Nambu,
giải Nobel 2008 và Peter
Higgs dùng ý niệm SBS để tìm ra một kịch bản mang khối lượng cho W, Z và cả
quark, lepton. Chúng ta dần dần tìm hiểu SBS và thuyết điện yếu qua những
bước chuyển tiếp sau đây.
4b-Đối xứng.
Trong tiến
trình khám phá các định luật khoa học, ít nhất là trong phạm vi hạt cơ bản,
nhiều nhà vật lý lấy nguồn cảm hứng trong cái đẹp cân đối hài hoà của thiên
nhiên để quan sát, tìm tòi, suy luận, sáng tạo. Cái đẹp đó dĩ nhiên chủ
quan trong nghệ thuật, văn chương, hội họa, âm nhạc, nhưng trong khoa học nó
khách quan, định lượng và mang tên gọi xứng. Sự tìm kiếm những
đối xứng và sự vi phạm tuần tự của nó, cũng như xác định được những gì bất
biến trong vật lý (dùng công cụ nhóm đối xứng trong toán học) là
phương pháp chỉ đường phổ biến và hữu hiệu trong công cuộc khám phá[22].
Đối xứng gương là một thí dụ. Bạn hình dung đối xứng đó như sau: tay phải
(hay trái) của ta có hình trong gương hệt như tay trái (hay phải), và cái ta
gọi là phía phải hay phía trái chỉ là ước lệ giữa con người. Không có gì cho
ta phân biệt được mọi hiện tượng ở ngoài gương và hình chiếu của hiện tượng
đó trong gương, sự hoán chuyển không gian x ↔ – x hay đối xứng
gương P (Parity) không làm chúng thay đổi, chúng bất biến. Một sáng
nắng ấm mùa thu ngả đông với cây đỏ lá vàng của Hà Nội thời xưa, tháp rùa
mái cong cổ kính soi hình xuống nước trong vắt pha lê của hồ gươm phẳng
lặng, tháp và bóng trong hồ là biểu hiện của đối
xứng gương toàn vẹn. Hai nhà vật lý Trung Quốc ở Mỹ T. D. Lee và C. N.Yang
(giải Nobel 1957) khám phá ra là lực hạt nhân yếu vi phạm tối đa cái
đối xứng gương P này, trong đó spin đóng vai trò quan trọng để giúp
ta nhận ra sự vi phạm đối xứng. Spin của electron, của neutrino đều hoàn
toàn quay về phía trái mà không quay về phía phải.

Giải Nobel 1957
  
Werner Karl Heisenberg
Enrico Fermi
James Clerk Maxwell
Nếu trong thế gian này tất cả đều cân xứng hoàn hảo thì
không có gì hầu như dễ xảy ra hơn là phải có gì
như
Louis Pasteur từng nói: ‘Bất đối xứng chính là sự sống!’ khi ông nhận
thấy có sự biệt hóa giữa phải và trái của chất lên men. Vậy kiếm tìm cơ chế
phá vỡ đối xứng có lẽ cũng chẳng kém phần hào hứng.
Một thí dụ khác là đối xứng vật chất-phản vật chất hay đối
xứng CP, theo đó các định luật vận hành của vật và của phản vật phải
giống hệt nhau. Chữ C trong CP chỉ định điện tích (charge) hay
sắc tích (và tất cả các lượng tử tính khác như spin), vì hoán chuyển vật
chất-phản vật chất là thay đổi dấu của chúng. Trong bốn tương tác cơ bản thì
ba lực hấp dẫn, điện từ và hạt nhân mạnh đều tuân thủ phép đối xứng
P và CP, chỉ lực hạt nhân yếu mới vi phạm chúng, tối đa
với đối xứng P, đôi chút với đối xứng CP, tương tác yếu của
hạt và của phản hạt khác nhau ở mực độ vừa phải.
Một đối xứng khác thuộc về thế giới lượng tử là siêu đối
xứng (supersymmetry), đó là sự hoán chuyển fermion ↔ boson, một hệ quả của
thuyết Siêu dây đề cập ở đoạn 2b. Đề tài về sự phá vỡ siêu đối xứng rất thú
vị và thời thượng.
Nhưng có một đối xứng ngự trị tuyệt đối, không hề bị vi phạm
trong sắc động lực và điện từ, một đối xứng đặc trưng của vật lý lượng tử,
nó mang tên đối xứng chuẩn (gauge symmetry). Chính cái đối xứng này
đã mở ra một chân trời mới lạ và là gốc nguồn cho sự thành công kỳ diệu của
Mô hình Chuẩn. Ai trong chúng ta khi làm quen với cơ học lượng tử đều biết
rằng bình phương của hàm số sóng |Ψ(x)|2 cho ta xác suất xảy ra
đối với một đại lượng nào đó. Ta thấy ngay hoán chuyển chuẩn Ψ(x) ↔ Ψ(x)
Exp[iα(x)] với bất kỳ hàm thực α(x) nào không làm thay đổi |Ψ(x)|2,
cũng vậy nó không làm thay đổi các định luật của Mô hình Chuẩn, các đại
lượng vật lý phải bất biến với hoán chuyển chuẩn. Chính vì vậy mà đối xứng
chuẩn chi phối toàn diện sự vận hành của các tương tác mạnh và
điện-yếu. Cụ thể ta mường tượng đối xứng này như sau: điện thế của trái
đất là một triệu volt chẳng hạn và hai cực điện trong nhà là 1000000 volt và
1000220 volt, nhưng máy của chúng ta chạy với 220 volt không hề trục trặc
mặc dầu hàng triệu volt điện thế của quả đất. Cái quan trọng là hiệu số của
điện thế chứ không phải bản thân của điện thế ở mỗi không-thời điểm x.
Cũng như α(x) là bất kỳ hàm gì, có muôn ngàn điện thế
khác nhau ở mọi nơi trong hoàn vũ, nhưng định luật chi phối sự vận hành của
chúng phải điều hòa ra sao để cho ta một trường điện từ duy nhất. Máy của
chúng ta mang lên các thiên thể xa xăm không bị chi phối bởi điện thế tuỳ
tiện lớn hay nhỏ trên đó, điện tích –e của electron trong máy bao giờ
cũng bất biến, ở đây hay ở đó, lực điện từ chi phối máy của chúng ta cũng là
lực điện từ trên các thiên thể. Đó là ý nghĩa vật lý của đối xứng chuẩn.
Phương trình Maxwell của tương tác điện-từ tuân thủ phép đối xứng chuẩn[23],
đối xứng này trở thành nguyên lý chủ trì cho sự phát triển kỳ diệu của điện
động học lượng tử, những tính toán trong lý thuyết này đưa ra nhiều tiên
đoán được thực nghiệm kiểm định tới độ chính xác cao hơn một phần tỷ (momen
từ của electron là một thí dụ). Đặc điểm của đối xứng chuẩn là nó đòi hỏi
các boson - làm trung gian sứ giả cho fermion tương tác với nhau qua trao
đổi các boson này - phải không có khối lượng. Photon trong điện động
học lượng tử cũng như gluon trong sắc động lực học lượng tử là thí dụ của
boson không có khối lượng. Ta gọi chúng là boson chuẩn (gauge
bosons).
Ngay khi mới phác họa ra lý thuyết để diễn tả lực yếu khoảng
những năm đầu 1950, nhiều nhà vật lý trong đó có Fermi, Feynman, Gell-Mann,
Yang, Lee, Glashow đã tinh ý nhận ra là giữa hai tương tác điện từ và yếu có
nhiều cấu trúc và tính chất đồng nhất, vậy hầu như là chuyện đương
nhiên nếu ta sử dụng phương pháp rất hiệu lực của đối xứng chuẩn trong điện
từ để khám phá những định luật vận hành của lực yếu. Nhưng khốn thay, cái
trở ngại là boson chuẩn W (làm sứ giả cho tương tác này) lại có khối lượng
rất lớn chứ chẳng bằng 0 như photon trong điện từ. Tại sao vậy? Vì lực yếu
chỉ tác động trong hạt nhân nguyên tử ở kích thước vi mô, trong khi lực điện
từ trải rộng khắp hoàn vũ, mà tầm truyền R của lực lại tỷ lệ nghịch
với khối lượng M của boson làm trung gian cho lực truyền đi, một hệ
quả của nguyên lý bất định Heisenberg theo đó RM ~ h. Biết tầm
truyền R của lực yếu, ta suy ra là boson W phải có khoảng hai trăm
ngàn lần khối lượng của electron, như vậy tương tác yếu không có đối xứng
chuẩn chăng? Ôi biết bao thất vọng nếu phương pháp rất hiệu lực của đối xứng
chuẩn - nguyên nhân cho sự thành công tuyệt vời của lý thuyết điện từ - xem
ra chẳng sao áp dụng được cho tương tác yếu.
Nhưng một chuyện ‘thần kỳ’ đã xẩy ra để làm cho lực yếu cũng
mang đối xứng chuẩn như điện từ, đối xứng đó chỉ bị che khuất mà
thôi. Câu chuyện khởi đầu từ hiện tượng siêu dẫn điện từ của ngành vật lý
chất rắn ở kích thước trung mô xa lạ với hạt cơ bản tung hoành trong thế
giới vi mô. Trong vật lý, cũng như trong nhiều môn khác, có một số nhỏ nhà
khoa học kiến thức xuyên ngành uyên thâm, nhìn rộng ra ngoài cái chuyên môn
của mình, tìm hiểu những gì phổ quát để mang lại cho ngành mình một luồng
gió mới. Nhà vật lý Nhật bản Yoichiro Nambu ở đại học Chicago là một trong
số đó. Chuyên gia về hạt sơ đẳng nhưng ông cũng lưu tâm và có cái nhìn bao
quát về vật lý siêu dẫn khác lạ với hạt, ông nhận thấy có cái gì liên kết
hai ngành - cấu trúc toán học thì rất giống nhau nhưng vật lý thì lại khác
biệt - và tìm thấy là đối xứng thực ra không bị phá vỡ mà chỉ bị che giấu
bởi một tác động nào đó. Nhưng chính Peter Higgs một nhà nghiên cứu ‘bình
thường’ của xứ Scotland làm việc tại một đại học ‘nhỏ’ Newcastle upon Tyne
đã tìm ra một kịch bản nhất quán để áp dụng ý tưởng Nambu cho đối xứng
chuẩn, mở đường cho Glashow, Salam, Weinberg kết cấu lực điện từ với
lực yếu.
4c-Siêu dẫn điện từ.
Hiện tượng siêu dẫn của
vật liệu ở nhiệt độ thấp là một đặc trưng của vật lý lượng tử, dòng điện
truyền qua một dây siêu dẫn có thể tồn tại hàng tỷ năm trên lý thuyết, ước
lượng khoảng vài trăm ngàn năm bởi đo lường, nó không có điện trở. Một điện
trường dẫu nhỏ đến đâu cũng khó xâm nhập được vào trong chất siêu dẫn vì nó
bị triệt tiêu bởi dòng điện ‘lý tưởng’ nội tại của siêu dẫn. Không những
điện mà cả từ trường cũng vậy. Một thỏi nam châm để gần một vật liệu siêu
dẫn bị bật ra xa, thông lượng từ trường bị trục xuất một phần ra ngoài vật
siêu dẫn, đó là hiệu ứng Meissnere="_ednref24" title style="text-decoration: underline; text-underline: single" href="#_edn24">[24].
Chính hiệu ứng này là ngọn nguồn cho xe lửa trong tương lai được ‘nâng‘ lên
trên đường rầy, không bị lực ma sát nên xe lửa có vận tốc rất cao. Vật liệu
siêu dẫn ngăn chặn tầm truyền của trường điện từ, nó là một hệ thống trong
đó photon chỉ có thể tác động trong một khoảng cách ngắn, khác với bản chất
tự tại của sóng điện từ có thể truyền đi vô hạn. Vậy photon, cái boson
chuẩn, khi chuyển động trong vật liệu siêu dẫn bị cản trở bởi một bức
tường chắn gì đó và nó tác động giống như có một khối lượng khác 0. Bức tường chắn đó trong lý thuyết siêu dẫn của John Bardeen, Leon N.
Cooper và John R. Schrieffer (BCS), giải Nobel 1972, chính là thể ngưng tụ
của muôn ngàn cặp Cooper, cặp liên kết hai electron có spin up↑ spin down↓
đối nghịch và như vậy mang spin 0. Mỗi cặp Cooper mang điện tích –2e
nhưng vì có spin 0 nên theo thống kê Bose-Einstein những cặp này có thể hoà
đồng chung sống trong cùng một trạng thái đông tụ. Mỗi electron cô đơn và có
cá tính mạnh mẽ, nhưng ở một hoàn cảnh đặc biệt nào đó (nhiệt độ thấp) khi
kết bạn, mỗi cặp tuy rất mảnh mai nhưng khi tụ họp đông đảo lại vận hành như
một dòng chảy thuần khiết của muôn ngàn điện tích và trở nên siêu dẫn (phụ
chú 1). Cái đối xứng chuẩn trong điện từ thực ra không bị phá vỡ, nó chỉ bị
che khuất đi bởi các cặp Cooper.
Đông tụ Bose của nguyên tử Helium 4 coi như boson, cũng như
cặp Cooper, là ngọn nguồn của hiện tượng siêu lỏng, luồng thể lỏng bơi ngược
trên thành ống nhỏ li ti. Vật liệu sắt từ (ferromagnetic) là thí dụ thứ ba
trong đó hàng tỷ electron có spin cùng hướng về một phía duy nhất khi nhiệt
độ giảm. Vật liệu sắt từ như vậy không có đối xứng tuyệt đối, mặc dầu định
luật cơ bản về sắt từ hoàn toàn đối xứng trong sự phân phối spin, không có
một chiều spin nào giữ ưu thế.
Trong ngôn từ của giới chuyên ngành, nếu phương trình cơ bản
mang một phép đối xứng nào đó mà nghiệm số của phương trình ấy lại không có
cái đối xứng nguyên thủy, ta gọi là sự phá vỡ tự phát tính đối xứng (Spontaneous Breaking of Symmetry, SBS), nghĩa là
tính đối xứng của hệ thống bị phá vỡ một cách tự phát. Đối xứng không bị vi
phạm trong toàn thể, nó chỉ bị che khuất ở một điểm cục bộ nào trong trạng
thái cơ bản (năng lượng cực tiểu) của vật chất. Siêu dẫn điện từ, Siêu lỏng
và Sắt từ là ba thí dụ của SBS.

Minh họa
hiện tượng SBS: Thế giới hoàn toàn đối xứng khi bút thẳng đứng, mọi chiều
đều bình đẳng (hình trái). Nhưng khi bút rơi và chỉ có một chiều chiếm ưu
thế (hình phải), đối xứng đâu có mất đi mà chỉ bị che khuất sau bút nằm
ngang.
4d-Thuyết Điện yếu.
Tính chất SBS là ngọn nguồn cho phép thống nhất được hai lực điện từ và yếu,
chúng tưởng như khác biệt mà thực ra cùng tuân thủ phép đối xứng chuẩn. Xin
nhắc lại, để thống nhất lực yếu với lực điện từ, ta sử dụng đối xứng chuẩn.
Vậy ban đầu cũng như photon của điện từ, boson chuẩn W, sứ giả của lực yếu,
không có khối lượng. Sau đó ta cần một trường boson mới lạ nào đó (trường
Higgs) để ngăn chắn tác động của lực yếu và mang khối lượng cho W. Trường
Higgs tựa như ngưng tụ của cặp Cooper trong điện từ. Cặp Cooper có spin 0
liên kết hai electron trong siêu dẫn điện từ nay được thay thế trong lực yếu
bởi hạt Higgs cũng có spin 0. Trường Higgs tràn ngập chân không lượng tử,
chân không này là trạng thái của vũ trụ thuở Nổ Lớn (Big Bang) có năng lượng
cực tiểu nhưng vô hạn. Không những mang khối lượng cho hạt W, hạt Higgs còn
mang khối lượng cho tất cả các hạt khác như quark, lepton. Chính cái cơ chế
SBS phổ biến và chi phối nhiều ngành vật lý là do Nambu, khi suy ngẫm về
thuyết siêu dẫn nói trên, đã đề xướng ra và Higgs áp dụng thành công trong
vật lý hạt cơ bản để cho hai lực điện từ và yếu có thể hợp nhất được. Giải
Nobel 2008 tặng thưởng Nambu đã đề xuất cái cơ chế SBS này.
4e- Sáu Quark và vi phạm
đối xứng CP.
Như đề cập ở phần 4b, lực hạt
nhân vi phạm đối xứng vật chất-phản vật chất (đối xứng CP),
một ngạc nhiên lớn vì ba lực cơ bản khác (hấp dẫn, điện từ và mạnh) đều
tuyệt đối tuân thủ phép đối xứng này. Tương tác yếu của hạt và của phản hạt
khác nhau. J. Cronin và V. Fitch cùng hai cộng sự viên khám phá ra năm 1964
sự vi phạm CP, và hai vị đã nhận giải Nobel 1980. Những năm đầu 1970,
trong bối cảnh của vật lý hạt thời ấy với Mô hình Chuẩn đang ở buổi sơ khai,
hai nhà vật lý trẻ Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa (KM) tiền phong đi
tìm hiểu cơ chế nào cho phép sự vi phạm này. Hai ông, hoàn toàn do suy luận
và tính toán, sau nhiều cuộc vật lộn với toán học ‘ứng dụng’, đã chứng minh
năm 1973 là ít nhất phải có sáu quark (đúng ra là phải có ít nhất ba ‘họ‘,
mỗi họ có hai quark)[25]
mới vi phạm được đối xứng CP. Vào thời buổi ấy quark hãy còn là một
giả thiết, một đề tài tế nhị, nhiều người bài bác kể cả những cây đại thụ,
và ngay cả nếu chấp nhận giả thiết quark thì lúc ấy người ta chỉ biết có ba
quark thôi: up, down và strange quark! Thực nghiệm liên tiếp chứng tỏ sau đó
sự chính xác của cơ chế vi phạm CP mà KM đề xướng. Năm 1974 quark
duyên (charm) bắt đầu lộ diện, năm 1977 với quark đáy (bottom) và
1994 với quark đỉnh (top). Khám phá của Kobayashi và Maskawa góp phần
quan trọng cho sự hình thành của Mô hình Chuẩn hạt cơ bản, nó diễn tả rất
chính xác sự vi phạm đối xứng CP trong các thực nghiệm liên quan đến
các meson K mang quark kỳ (strange) và meson B mang quark đáy.
Kỳ diệu thay cái duyên không cân đối của thế giới lượng tử
tiên đoán bởi Kobayashi và Maskawa mà giải Nobel 2008 vinh tặng.
Viễn cảnh
Ngày mồng 10 tháng 9 vừa qua, một sự kiện khoa học nóng hổi
và quan trọng hàng đầu vừa xẩy ra ở Trung tâm Âu châu Nghiên cứu Hạt nhân
(CERN) ngay biên giới Pháp-Thụy sĩ cạnh thành phố Genève, một sự kiện mà các
nhà vật lý và thiên văn toàn cầu hồi hộp đợi chờ từ hơn mười năm qua. Hôm ấy
bắt đầu khởi động máy gia tốc hạt LHC (Large Hadron Collider) nằm sâu hơn
trăm thước trong lòng đất với chu vi 27 cây số. Khắp năm châu duy nhất chỉ
có máy này có năng lượng cực kỳ lớn làm đầu tầu thế giới để khám phá, đào
sâu tìm hiểu, nhằm thống nhất các định luật cơ bản tận cùng của vạn vật.
Nền tảng của
mô hình chuẩn dựa trên sự hiện hữu thiết yếu của
hạt Higgs vô hướng, tràn ngập không gian để cung cấp khối lượng cho tất cả
các hạt khác khi tương tác với nó. Tựa như một đại dương vô hạn tràn
đầy một cái gì (hạt Higgs), ở trong đó khi các hạt cơ bản khác dao động sẽ
bị cản trở và di chuyển chậm đi do đó mang theo một khối lượng, giống như
ánh sáng khi truyền trong nước bị bẻ cong. Khám
phá ưu tiên của LHC là việc săn tìm hạt cơ bản Higgs này, hạt tạo ra khối
lượng cho vạn vật, đề tài mũi nhọn,
chìa khóa mở đường cho sự thống nhất hoà quyện giữa hai trụ cột của vật lý
hiện đại: Lượng tử với Tương đối (hẹp và rộng). Thực
vậy xin nhắc lại khối lượng là căn nguyên khởi đầu cho sự xuất hiện của
không gian và thời gian, của vật chất, của
vũ trụ. Không có khối lượng tức là năng lượng - thuyết tương đối hẹp,
qua phương trình E = mc²1⁄√(1− v² ⁄c²) của thế kỷ,
chẳng bảo cho ta là năng lượng và khối
lượng tuy hai mà một sao ? - thì chẳng có gì
hết, kể cả không gian và thời gian trong đó vận hành vạn vật.
Theo thuyết tương đối rộng phác hoạ ở chương 3b, toàn bộ Không gian,
Thời gian, Lực, Vật chất chẳng sao tách biệt, cặp không-thời gian (cái vỏ)
và cặp lực-vật chất (cái được chứa) chồng chéo gắn kết bên nhau, cấu trúc
không phẳng mà cong uốn của không-thời gian (cái vỏ) được xây dựng bởi chính
cái nội dung vật chất chứa đựng trong vỏ. Năng lượng là gốc nguồn
chung cho tất cả, từ đó vật chất, lực, không gian, thời gian được tạo dựng
nên.
Ngoài sự săn tìm hạt Higgs ra, còn bao câu hỏi thâm sâu khác
đang đợi chờ trả lời bởi thực nghiệm ở LHC, trong đó xin tạm kể:
(i) Đâu rồi phản vật
chất ?
Tại sao Có mà chẳng phải là tại sao
Không? Câu hỏi siêu hình mà Leibniz đã tự đặt cho mình. Chuyển sang vật lý
câu hỏi trở thành tại sao chúng ta sống trong thế giới của hạt mà không của
phản hạt? Vì số lượng vật chất và phản vật chất phải bằng nhau, chẳng cái
nào nhiều hơn cái nào ở cái thuở ban đầu của hoàn vũ. Từ năng lượng thuần
khiết, chúng đều được hình thành theo từng cặp. Mà vật chất chính là nguyên
tử, khí và thiên thể giăng đầy vũ trụ ngày nay, còn phản vật chất lại chẳng
thấy tăm hơi, tại sao vũ trụ ngày nay lại chỉ có
vật chất? Đó là một bí ẩn của mô hình Big Bang vì ba lực (mạnh, điện từ và
hấp dẫn) trong bốn tương tác cơ bản đều tuân theo luật đối xứng vật
chất-phản vật chất (đối xứng CP), không có sự dị biệt giữa chúng. Chỉ
tương tác yếu mới vi phạm phép đối xứng CP. Nhưng sự vi phạm nhỏ của
phép đối xứng vật chất-phản vật chất trong các phòng thí nghiệm trên trái
đất có giải thích nổi về mặt định lượng tại sao trong vũ trụ ngày nay, vật
chất lại áp đảo toàn diện phản vật chất, tại sao cái này lại biến đi từ
trong trứng nước thời Big Bang, cơ chế bí ẩn gì đứng sau sự bất cân đối vật
chất-phản vật chất ở cái thuở ban đầu ? Đó là đề tài nghiên cứu ưu tiên của
LHC cùng với sự săn tìm hạt cơ bản Higgs.

(ii) Năng lượng
tối
(mang tính chất đẩy ra) để làm dãn nở vũ
trụ, cái năng lượng tối đầy bí ẩn này chưa ai biết là gì tuy nhiên nó chẳng
phải do vật chất tạo thành mà lại mang đặc tính năng lượng của n không
và chiếm đến chừng 73% năng-xung lượng trong hoàn vũ. Hằng số vũ trụ của
Einstein đề cập ở đoạn 3c đóng vai trò gì trong năng lượng tối này?
(iii) Vật chất tối
(mang tính chất hút vào) nắm đến 23% khối lượng
trong vũ trụ, nó không bức xạ mà chỉ có vai trò giữ cho các thiên hà
góp thành chùm chứ không tung bay khắp phía, khác lạ với vật chất bình
thường (chỉ chiếm khoảng 4% khối lượng vũ trụ) của những thiên hà sáng ngời
mà ta quan sát được, một đề tài nóng hổi của vũ trụ học và vật lý hạt cơ
bản.
(iv) Không gian chỉ có ba chiều sao ?
Siêu dây là thuyết duy nhất đầu tiên trong vật lý xác định được con số D =
10 chiều của không-thời gian (hay 11 chiều trong thuyết M). Trước Siêu dây,
số chiều 4 của không-thời gian ta quen dùng chỉ là một định đề tiên nghiệm
ta tự cho ta, do cảm nhận và quan sát, minh họa không-thời gian là bộ phận
chẳng thể tách rời khỏi vật chất mà thuyết tương đối rộng đã hé mở cho ta
thấy. Những không gian còn lại bị cuốn tròn quá nhỏ để ta không quan sát
được trong đời sống hàng ngày. Máy gia tốc LHC gián tiếp tìm kiếm không gian
ẩn này, qua cái gọi là hiện tượng ‘bất bảo toàn năng lượng ảo’, vì ta
chẳng đo lường nổi phần năng lượng bị thu hút vào cái không gian ngoại vi
đó.

Cơ cấu gì đứng sau sự bất cân
đối vật chất-phản vật chất ở cái thuở ban đầu của hoàn vũ ? Nếu vật và phản
vật đều bằng nhau lúc Big Bang, chúng sẽ cùng hủy diệt thành năng lượng
thuần khiết. Chút thặng dư của một trên mười tỷ vật chất so với phản vật
chất đủ để hình thành thiên thể, hành tinh và cuối cùng cuộc sống.
Thay lời kết.
Dẫu mang
quá khứ huy hoàng, hoạt động khoa học và nghiên cứu ở châu Âu - quê hương
của Lượng tử và Tương đối mà hơn ai hết Max Plank và Albert Einstein đã đóng
góp vào - bị lu mờ phần nào trong nửa thế kỷ sau Đệ nhị Đại thế Chiến
1939-1945 thảm khốc và phân hoá Đông-Tây. Năm nay 2008 mở đầu một bước ngoặt
đánh dấu sự phục hưng của nền vật lý ở châu lục này mà sự nghiệp xây dựng
nên CERN quả là một bài học vượt xa đối tượng khoa học thuần tuý. Trên cánh
đồng hoang lác đác mấy chú bò ăn cỏ ở Ferney-Voltaire biên giới Pháp-Thụy
sĩ, ngay sau Thế chiến này nhiều nhà vật lý Âu châu di tản khắp nơi vì nạn
phát xít đã trở về cố hương cùng đồng nghiệp ở lại xây dựng nên Trung tâm Âu
châu Nghiên cứu Hạt nhân. Vì hòa bình và phát triển qua nghiên cứu cơ bản,
với sự hỗ trợ tích cực của một số chính khách Pháp, Đức, Anh có tầm nhìn xa,
họ đã chung sức mở đường cho sự hồi sinh và hoà giải của các nước Âu châu.
Vì mỗi nước riêng lẻ không sao đủ nhân sự và phương tiện để hoàn thành sứ
mạng, nguyên tắc tổ chức của CERN - tập hợp đóng góp tài năng, ngân quỹ từ
nhiều nước châu Âu - đã tiên phong làm mô hình cho nhiều ngành hoạt động
khác phỏng theo từ thiên văn, sinh học, công nghệ hỏa tiễn, hàng không, thậm
chí cả kinh tế, chính trị (CERN ra đời nhiều năm trước Liên hiệp Âu châu).
Mạng lưới toàn cầu (world wide web) của internet ra đời ở CERN khoảng năm
1990 là một trong nhiều thành công kỳ diệu từ nghiên cứu cơ bản sang ứng
dụng của cơ quan này, máy chụp hình scanner trong y học, kỹ thuật siêu dẫn
điện từ tạo nên những khối nam châm khổng lồ là vài thí dụ khác. Năm 1992
(đúng 500 năm sau khi Columbus đặt chân lên châu Mỹ) máy gia tốc hạt SSC
(Superconducting Super Collider) đầu tầu thế giới về vật lý hạt cơ bản đang
được xây dựng ở Waxahachie phía nam Dallas, Texas (Mỹ) bị cắt đứt hỗ trợ và
ngừng hoạt động. Còn lại ngày nay là một bãi đất điêu tàn khiến ta chẳng
khỏi liên tưởng đến xứ Nắng u ẩn tháp Chăm của miền Trung gió cát. May thay
CERN được sự đồng tình ủng hộ của các chính quyền Âu châu, quyết tâm thay
thế sự hẫng hụt này và trong mười năm xây dựng nên LHC để mở đầu chu kỳ
thăng trầm rời Mỹ sang Âu của ngành vật lý hạt mũi nhọn này. Hơn nữa CERN
còn giang tay đón mời sự cộng tác của những tài năng đến từ khắp mọi miền
trên trái đất, kể cả những nước đang phát triển để tận mắt tận tay học hỏi
rồi sáng tạo. Một cơ hội ngàn vàng đối với tài năng trẻ Việt Nam để tiếp cận
nghiên cứu quốc tế trong chương trình cực kỳ quan trọng này, ở những lãnh
vực thuộc biên giới của tri thức nhân lọai đang nóng bỏng.
[3]
Phản vật chất và vật chất có cùng khối lượng m nhưng tất cả các
đặc tính khác như điện tích, spin đều ngược dấu. Phản electron
(positron) có điện tích +e, phản proton có điện tích –e,
spin của phản hạt và hạt ngược chiều nhau. Những phản hạt của neutron,
neutrino, meson K0, B0
(hạt trung hoà) đều
có spin (và các đặc trưng lượng tử khác) ngược dấu so với hạt.
[4]
Những vectơ x, v, k đều in đậm. Một vật quay với
vận tốc v trên một quỹ đạo hình tròn (bán kính x = |x|),
chung quanh một trục thẳng góc với hình tròn đặt ở tâm nó. Đại lượng cơ
học diễn tả sự quay tròn này gọi là momen động lượng L, nó
là bán kính nhân với xung lượng, tích số của hai vectơ : L = x
× k. Danh từ momen lấy ở chữ Latinh movimentum, đòn bẩy xa khỏi
trục mà vật quay chung quanh. Phép phân tích thứ nguyên - theo ba đại
lượng phổ quát M (khối lượng), L (chiều dài) và T (thời gian) - cho ta
thấy hằng số Planck h = E/ν (năng lượng
nhân với thời gian) cùng có chung thứ nguyên ML2/T
với momen
L, vì thế mô tả vectơ spin
S (quay tròn như L)
theo đơn vị h là điều tự nhiên và nhất quán.
Momen từ của electron bằng (e/mc)ћ/2.
Những hạt cơ
bản của vật chất electron,
neutrino, quark có spin bằng h/4π = ћ/2.
Bạn đọc thấy trên tấm cẩm thạch ghi khắc phương trình Dirac, hai ký hiệu
ћ và c vắng mặt. Hai hằng số cơ bản
này, tượng trưng cho Lượng tử và Tương đối, là hệ đơn vị tự nhiên
của vật lý (ћ =1, c =1)
làm chuẩn mực để mọi đại lượng khác dựa vào mà
tính toán, đo lường. Trong đơn vị tự nhiên này, electron có spin
½.
[7]
Trong cơ học lượng tử, năng lượng E và vectơ xung lượng k
đều trở thành đạo hàm riêng phần của bốn toạ độ không-thời gian
(ct, x) theo đó E → iћ ∂/∂t, k → –iћ
∂/∂x, xem Hoàng Dũng : Nhập môn cơ học
lượng tử, nxb Giáo Dục (1999). Do hoán chuyển
E → iћ ∂/∂t, k → –iћ ∂/∂x, công
thức E2 – |k|2c2
= m2c4 của thuyết tương đối hẹp trở thành
∂μ∂μ
+ (mc/ћ)2, với toán tử
d’Alembertien
∂μ∂μ
≡ ∂2/∂(ct)2 –[∂2/∂x2
+ ∂2/∂y2 + ∂2/∂z2].
Lấy căn số bậc hai của toán tử
∂μ∂μ + (mc/ћ)2
chính là nhờ bốn ma trận 4 × 4 γμ
nẩy sinh từ trí tuệ siêu việt của Dirac. Ông cũng độc
sáng ra spinor (một đối tượng hình học, trung gian giữa vô hướng và
vectơ) và hàm kỳ dị δ(x) mà hai nhà toán học Pháp
Elie Cartan và Laurent Schwartz triển khai sau này.
[8]
Theo thuyết tương đối hẹp, một vật khối lượng m
chuyển động với vận tốc v, nó có năng lượng E = ρmc2 và xung lượng
k = ρmv với ρ =1⁄ √(1− v² ⁄c²) ≥ 1. Những đại lượng
E, k tuy mỗi cái riêng lẻ đều thay đổi theo vận tốc v,
nhưng cái khác biệt E2 – |k|2c2
không phụ thuộc vào v nữa, nó bất biến và bằng m2c4
trong tất cả các hệ quy chiếu, tính bất biến là điều kiện tiên quyết
mà thuyết tương đối đòi hỏi. Vì electron có vận tốc rất cao nên phải
dùng E2 = |k|2c2 +
m2c4.
[9]
Những hạt có spin ћ/2
gọi chung là fermion (vinh danh nhà vật lý Ý Enrico Fermi). Những hạt có
spin số nguyên 0ћ, 1ћ gọi chung là boson (vinh danh nhà
vật lý Ấn độ Satyendra Nath Bose). Fermion như con quay tự xoay
hai vòng quanh mình mỗi lượt, boson 0ћ
như một chấm tròn vô hướng, còn boson spin 1ћ như một
vectơ.
[10]
Phương trình sóng của Schrödinger dựa vào cơ học cổ điển
phi tương đối tính theo đó E = |k|2/2m.
Khi lượng tử hoá nó, nghĩa là năng lượng E và xung lượng k
theo thứ tự trở thành những đạo hàm của thời gian và không gian (phụ chú
7), sự thuần nhất giữa thời gian (gắn với E ) và không gian (gắn
với k) không còn nữa.
[11]
Số ảo i này được dùng trong hàm Exp[i/ћ
(k.x – E t)] để diễn tả sự dao động tuần hoàn dưới dạng
sóng phẳng của mọi vật thể vi mô. Hàm Exp[i/ћ
(k.x – E t)] tuần hoàn (theo thời gian) với tần số ν =
E/h của Planck, và tuần hoàn (theo không gian) với bước sóng λ =
h /|k| của de Broglie. Khi lấy đạo hàm theo t của Exp[i/ћ
(k.x – E t)] ta có thể suy ra E → iћ ∂/∂t,
và lấy đạo hàm theo x ta có k → –iћ ∂/∂x đề
cập trong phụ chú 7.
[12]
Nhà vật lý ít người có cái duyên thi sĩ nên chỉ đặt toàn
những tên vật đen, lỗ đen, nổ lớn, vật chất tối, dây! Trong đời sống
hàng ngày, ta gọi vật đen (black body) là một vật liệu chỉ hấp thụ ánh
sáng chiếu lên nó mà không phản xạ. Trong phòng thí nghiệm, vật đen là
một lò bịt kín nung nóng ở nhiệt độ T và đục một lỗ nhỏ trên thành lò,
ta nghiên cứu bức xạ nhiệt phát ra qua lỗ. Sự phân phối cường độ bức xạ
phát ra bởi vật đen chỉ phụ thuộc vào T thôi chứ không vào bất cứ chất
liệu nào ở trong lò. Điều này chứng tỏ bức xạ của vật đen chỉ phụ thuộc
vào sự dao động của các thành phần cơ bản chung cho tất cả các chất
liệu, mang tính chất rất phổ quát. Bức xạ nhiệt của vật đen là một
trường hợp hi hữu trong vật lý có tính phổ quát tuyệt đối. Cường độ bức
xạ là một hàm phổ quát của nhiệt độ T và tần số ν của ánh sáng bức xạ,
mỗi tần số lại gắn liền với một màu (từ đỏ vàng sang tím) của ánh sáng
đó. Một thanh sắt đen ở nhiệt độ bình thường nhưng thành đỏ khi nung
nóng lên và trở nên trắng khi tăng nhiệt độ lên cao nữa. Công thức về
bức xạ vật đen mà Planck viết ra ngày 14 tháng chạp năm 1900 chính xác
và phổ quát đến nỗi nó áp dụng từ lò kín nung nóng của phòng thí nghiệm
ở đại học Berlin thế kỷ 19 cho đến bức xạ nền của Vũ trụ sau vụ Nổ lớn
mà hai vệ tinh COBE và WMAP vừa đo lường tàn dư nhiệt lượng phóng xạ
cách đây khoảng 13.7 tỷ năm (giải Nobel vật lý 2006). Biết đâu trăm năm
sau, ở thế kỷ 22, con người sẽ đo lường được bức xạ của một vật đen khác
kỳ dị hơn nhiều, đó là lỗ đen phóng xạ nhiệt ra ngoài chân trời tối kín
của nó, lỗ đen chẳng hoàn toàn đen nữa. Thực vậy khi nối kết với vật lý
lượng tử, J.D. Bekenstein và S. Hawking khám phá ra là lỗ đen cũng phóng
xạ nhiệt ra ngoài chân trời tối kín của nó như một vật đen và mang
entropi luôn tăng trưởng, một liên hệ sâu sắc giữa vật lý cổ điển (trọng
trường, nhiệt động học) và lượng tử.
http://www.livescience.com/space/080903-our-black-hole.html
[14]
Ở kích thước trung mô (một
phần triệu mét trở lên) có hàng tỷ hạt vi mô, thử hỏi còn có cách khảo
sát nào khác ngoài phép thống kê?
[15]
Đặc trưng của cơ học lượng tử (mà nền tảng do Heisenberg
và Dirac xây dựng) dựa trên những toán tử và ma trận. Toán tử (ma trận)
A nhân với toán tử (ma trận) B thường khác B nhân với A. Nguyên lý bất
định Heisenberg trong thuyết trường lượng tử tương đối tính dùng đến
phép giao hoán [A, B] ≡ AB – BA và phản giao hoán {A, B} ≡ AB + BA.
Trường boson tuân theo phép giao hoán, còn trường fermion (spin
ћ/2) tuân theo phép phản
giao hoán.
[22]
Nhóm ‘quay’ trong hình học bốn chiều, còn gọi là nhóm
đối xứng Lorentz, để làm sao cho khoảng cách không-thời gian s2
= (x² + y² + z²) - (ct)² thành một bất biến là một thí dụ. Coi
phần 3a và phụ chú 16.
[23]
Photon diễn tả bởi tứ-vectơ Aμ(x). Thay Aμ(x)
bởi Aμ(x) + ∂μα(x) của bất cứ
hàm α(x) nào không làm cho phương trình Maxwell thay đổi là thí dụ của
đối xứng chuẩn trong tương tác điện từ. Photon không có khối lượng
nhưng chính vì nó có vận tốc c cực đại nên nó có năng lượng E
và xung lượng k khác 0 (E = hν = |k|c).
[24]
Xem bài của Nguyễn Trọng Hiền cùng trong Kỷ Yếu
[25]
Kobayashi và Maskawa rất khác biệt về cá tính và phương cách tiếp cận
khoa học, Kobayashi thiên về thực nghiệm và trực giác, Maskawa thiên về
toán học, hai vị bổ túc cho nhau. Họ chứng minh là nếu có N họ, mỗi họ
có hai quark, thì sự vi phạm CP chỉ xảy ta nếu (N–1)(N–2) > 0.
Ít nhất ba họ, sáu quark là ở đó.
___________________________
Trích từ Max Planck, Người Khai Sáng Thuyết
Lượng Tử, Kỷ yếu mừng sinh nhật thứ 150.
Chủ biên: Phạm Xuân Yêm - Nguyễn Xuân Xanh - Trịnh Xuân Thuận - Chu Hảo -
Đào Vọng Đức. Nhà xuất bản: Tri Thức, Hà Nội
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phạm Xuân Yêm
|