1/ Thời thơ ấu.
Vào khoảng tháng 12 năm 1837, Đại Úy William L. Mackenzie và các
đồng chí trong đó có ông Samuel Edison, đã tổ chức một cuộc cách
mạng, định đánh chiếm thành phố Toronto thuộc Gia Nã Đại nhưng mưu
sự không thành. Để tránh sự lùng bắt, ông Samuel Edison phải trốn
sang Michigan, Hoa Kỳ, rồi lưu lại Detroit vì thời bấy giờ, chính
phủ Gia Nã Đại dự định lưu đầy các phạm nhân chính trị sang
Tasmania, châu Úc.
Sau khi mang được gia đình gồm vợ và hai con sang Hoa Kỳ vào đầu năm
1839, ông Samuel Edison dời nhà tới Milan, thuộc tiểu bang Ohio.
Milan là một thị trấn nhỏ bên giòng sông Huron, cách hồ Erie vài dặm
đường. Tại Milan, công việc buôn bán khá sầm uất. Từ nơi đây người
dân chở đi nào ngũ cốc, rau trái, nào củi gỗ và các nông sản khác.
Ông Samuel Edison dựng nên tại nơi đây một xưởng cưa và công việc
làm ăn khá phát đạt. Chính tại nơi cư ngụ mới này, gia đình Edison
đã có thêm một đứa trẻ vào ngày 11/2/1847. Ông Samuel đặt tên cho
đứa bé là Thomas Alva Edison để ghi nhớ Đại Úy Alva Bradley đã có
công giúp đỡ gia đình Samuel sang Hoa Kỳ.
Alva hay Al, tên gọi tắt, là một đứa trẻ có cái đầu to khác thường
khiến cho bác sĩ bảo cậu sẽ bị đau óc nhưng điều tiên đoán này đã
trở thành sai lầm và thực ra, chính bộ óc của Al sau này đã làm tiến
triển ngành Kỹ Thuật của Nhân Loại.
Càng lớn, Al càng tỏ ra hiếu kỳ. Cậu thường đặt các câu hỏi “tại
sao, thế nào... “ và các câu thắc mắc không bao giờ hết của cậu đã
khiến cho những người chung quanh đành phải trả lời “không biết”.
Khi lên 5 tuổi, Al thường lang thang bên bờ sông mà coi người lớn
làm việc. Tại nơi này, cậu được nghe nhiều bài hát và đã thuộc lòng
rất nhanh các câu ca bình dân, điều này chứng tỏ Al có một trí nhớ
rất tốt và nhờ trí nhớ này mà về sau, cậu thu thập được nhiều kiến
thức sâu rộng.
Vào năm 1850, đường xe lửa được đặt tại nhiều nơi trên đất Hoa Kỳ.
Tại Milan, các bô lão từ chối không cho phép đường sắt đi qua làng
mình vì e ngại công việc làm trên sông bị tê liệt. Vì thế đường xe
lửa chỉ được thiết lập tại phía bắc tiểu bang Ohio và cũng do vậy,
thị trấn Milan trở nên kém sầm uất. Ông Samuel đành phải đóng xưởng
cưa và dọn nhà qua Port Huron, thuộc tiểu bang Michigan vào năm
1854. Tại Port Huron, ông Samuel buôn bán ngũ cốc, củi gỗ và cũng
trồng rau và trái cây. Năm lên 8 tuổi, Al từng giúp cha, chất rau
trái lên một chiếc xe ngựa và đi bán hàng từng nhà trong thị xã.
Al cũng được cha mẹ cho đi học tại một ngôi trường độc nhất. Trường
chỉ có một lớp với khoảng 40 học sinh, lớn có, nhỏ có, học một ông
giáo theo các trình độ khác nhau. Trong phòng học những chỗ ngồi gần
ông thầy chỉ để dành cho các trẻ em ngu đần. Tại lớp học, Al đặt rất
nhiều câu hỏi hắc búa mà lại không chịu trả lời các câu hỏi của
thầy. Al thường đội sổ, khiến cho các bạn cậu chế riễu cậu là đần
độn.
Một hôm, nhân có viên thành tra vào thăm lớp học, thầy giáo đã chỉ
vào Al và nói : “trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn”.
Al rất căm hận về hai chữ “điên khùng” và đem câu chuyện này kể lại
với mẹ. Bà Nancy khi nghe kể xong, liền nổi giận, bà dẫn ngay Al đến
trường và bảo ông giáo : “ông bảo con tôi điên khùng hả? Tôi nói
thật cho ông rõ, trí óc của nó còn hơn ông đấy. Tôi sẽ giữ nó tại
nhà và dạy lấy, vì tôi đã là giáo viên, để ông thấy rằng sau này nó
sẽ ra sao!”.
Từ đó, Alva không đến trường nữa mà học với mẹ tại nhà trong suốt 6
năm trường. Nhờ mẹ, Al học dần các môn Lịch Sử của Hy Lạp, La Mã và
Sử Thế Giới. Al cũng được làm quen với Thánh Kinh, với các tác phẩm
của Shakespeare và của các văn sĩ, thi sĩ, sử gia danh tiếng khác.
Nhưng đặc biệt nhất, Al ưa thích Khoa Học. Cậu có thể kể lại rành
mạch các phát minh, các thí nghiệm và tiểu sử của các đại bác học
như Newton, Galileo. . . Chỉ trong vòng 6 năm, bà Nancy đã truyền
lại cho con tất cả kiến thức của mình, từ môn Địa Dư với những tên
núi sông, tới môn Toán Học chính xác. Bà Nancy không những dạy con
về học vấn mà còn huấn luyện Al về hạnh kiểm. Al được mẹ nhắc nhở
các đức tính thật thà, ngay thẳng, tự tin và cần cù, cộng với lòng
ái quốc và tình yêu nhân loại.
Al học hành tiến bộ rất nhanh chóng khiến cho cha rất hài lòng. Ông
Samuel thường cho con các món tiền nhỏ đủ mua dần từng cuốn sách hữu
ích, nhờ thế Al đã say sưa với các tác phẩm như Ivanho của Scott,
Robinson Crusoe của Defoe và Oliver Twist của Dickens. Nhưng tác giả
mà Al ưa thích nhất là Victor Hugo và cậu thường kể lại cho các bạn
nghe các câu chuyên đã đọc qua.
Năm 10 tuổi, Al được cha cho cuốn sách toát yếu về Khoa Học của soạn
giả Parker (School Compendium of Natural and Experimental Philosophy
by Richard Green Paker). Trong cuốn sách toát yếu này, Paker đã
giảng giải về máy hơi nước, máy điện báo, cột thu lôi, pin Volta. .
. Cuốn sách đã trả lời Al rất nhiều điều mà từ trước, Al vẫn thường
thắc mắc. Cuốn sách này đã dẫn đường cho Al tới phạm vi rộng lớn của
Khoa Học và khiến cho cậu yêu thích môn Hóa Học.
2/ Thời kỳ thực tập.
Năm 12 tuổi, Al nói với cha mẹ : “Thưa cha mẹ, con hiện nay cần
nhiều tiền, cha mẹ cho phép con đi xin việc làm”. Hai ông bà Edison
đã ngăn cản con vì lo sợ Al sẽ gặp phải các rủi ro, hơn nữa công
việc kiếm ăn sẽ làm trở ngại sự học nhưng Al đã quyết định rồi, cậu
nằng nặc đòi cha mẹ cho phép thử tự lập và hứa rằng sẽ hết sức thận
trọng.
Thời bấy giờ, công ty xe lửa Grand Trunk thiết lập một ga nhỏ tại
Port Huron. Al xin được phép bán báo, tạp chí, sách vở, trái cây và
bánh kẹo trên xe lửa chạy quãng đường Port Huron và Detroit dài 101
cây số. Từ đó cậu bé 12 tuổi này mỗi tháng thức dậy lúc 6 giờ để đáp
chuyến xe lửa 7 giờ và tới Detroit lúc 10 giờ. Thông thường tới
Detroit, Al vội vã đến thư viện và nghiền ngẫm trong nhiều giờ các
cuốn sách mà cậu không thể tìm thấy tại nơi mình cư ngụ. Al tập dần
cách đọc nhanh và cậu quyết định bắt đầu đọc các sách của các tác
giả từ vần A cho tới hết 16,000 cuốn của thư viện. Tới 6 giờ chiều,
Al lại ra xe và trở về Port Huron lúc 9 giờ 30 tối. Ít khi Al đi ngủ
trước 11 giờ đêm vì cậu còn phải làm các thí nghiệm hóa học trong
hơn một giờ đồng hồ.
Trong thời gian bán báo và kẹo bánh trên xe lửa, Al làm quen được
nhiều người gồm các chuyên viên điện báo, các công nhân và nhân viên
nhà ga. Cậu được các người này giúp đỡ trong nhiều trường hợp khó
khăn.
Vào năm 1861, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ bùng nổ. Các trận đánh càng
ác liệt thì số báo lại càng bán chạy. Al bèn nghĩ tới việc bán báo
tại tất cả các nhà ga phụ. Vào ngày 01 tháng 4 năm 1862, tờ báo Free
Press loan tin trận đánh quyết định tại Shiloh trong tiểu bang
Tennessee. Al liền chạy vội tới tòa báo Free Press là tờ báo lớn
nhất tại Detroit và hỏi mua 1,000 tờ trả tiền sau, rồi Al và hai
người bạn vác báo lên tầu. Tại các ga đầu, số báo bán được còn ít ỏi
nhưng càng đi xa hơn, số người hỏi mua báo càng gia tăng khiến cho
Al nghĩ cả đến việc tăng giá báo từ 5 xu tới 10 xu, rồi sau cùng bán
tới 25 xu một tờ. Nội trong ngày hôm đó, Al đã bán hết 1,000 tờ báo
trước khi tới Port Huron và thu được hơn 100 đô la, một số tiền lớn
nhất mà cậu kiếm được từ trước tới nay.
3/ Ông chủ báo nhỏ tuổi và điện tín viên.
Một sáng kiến khác lại nẩy ra trong đầu óc của cậu bé đầy nghị lực
này : Al định ra báo. Cậu liền mua một máy in quay tay và cậu thiết
lập thêm trong toa hành lý “một cơ sở báo chí” nữa. Al đã cho ra đời
tờ tuần báo khổ nhỏ có tên là “The Weekly Herald” (Diễn Đàn Hàng
Tuần). Viên chủ nhiệm nhỏ tuổi này nhận thấy không thể cạnh tranh
với các báo chí tại Detroit về các tin tức chiến sự nên quyết định
chỉ phổ biến mọi tin xẩy ra trong vùng dọc theo hai bên con đường
sắt. Cậu thu lượm tin tức nhờ các chuyên viên điện báo địa phương.
Al vừa là chủ nhiệm, quản lý, vừa là ký giả, thợ in và người bán
báo. Từ đó tuần báo The Weekly Herald 2 trang, được in mỗi mặt 3
cột. Ngoài các tin tức địa phương, Al còn cho phổ biến các tin về
hiếu hỉ, các tai nạn, hỏa hoạn. . .
Báo của Al bán được khá chạy. Ngay ở số đầu tiên đã tiêu thụ được
chừng 400 tờ trong một tháng. Al còn nhận cả việc quảng cáo trên báo
nữa. Tuần báo The Weekly Herald đã có lần được bán cho nhà phát minh
người Anh là ông Stephenson khi viên kỹ sư này một hôm đi trên
chuyến xe lửa qua miền Port Huron. Ông Stephenson đã ngợi khen các ý
tưởng của Al và ông quả quyết rằng báo của cậu cũng giá trị như các
báo của những người lớn gấp đôi tuổi.
Muốn làm gia tăng số độc giả, Al cho thêm vào tuần báo một đề mục
chuyện nói chuyện ngồi lê mách lẻo và ký dưới tên hiệu Paul Pry
(Paul, người tọc mạch). Al đã dùng báo chí của mình để chỉ trích một
vài người trong vùng và cậu đã cẩn thận ghi tên của họ bằng mẫu tự
đầu tiên. Nhưng quãng đường 101 cây số rất ngắn ngủi, không thể giúp
Al tránh khỏi sự săn đuổi của những nạn nhân bị chế nhạo. Rồi vào
một ngày đẹp trời, khi Al đang đi bộ trên bờ sông Saint Clair, bỗng
có một người vạm vỡ tiến lại gần Al, túm cổ viên chủ nhiệm nhỏ tuổi,
ném xuống sông. Al ngoi lên bờ, quần áo ướt như chuột. Bực mình vì
bị một số độc giả luôn rình rập quấy rầy, Al quyết định ngưng việc
làm báo.
Vào một buổi sáng tháng 8 năm 1862, Al đứng nói chuyện với ông
Mackenzie, nhân viên nhà ga kiêm chuyên viên điện báo. Ông Mackenzie
có một đứa con trai 2 tuổi rưỡi, tên là Jimmy, thường hay lân la
chơi tại sân ga. Khi đang trò chuyện, bỗng Al trông thấy Jimmy đang
đi dọc theo đường sắt trong khi đó, một toa xe goòng đang phóng đến.
Nhận thấy sự nguy hiểm trước mắt, Al liền lao mình tới chỗ đứa bé,
ôm lấy nó mà lăn ra phía ngoài. Để đền đáp ơn cứu tử đứa con của
mình, ông Mackenzie nhận dạy Al nghề điện báo và hứa sẽ xin việc cho
cậu khi nào Al thành thạo.
Từ đó Al bắt đầu bỏ ra mỗi ngày 18 giờ để học về điện báo và chữ
Morse. Chỉ trong vài tuần lễ, Al đã theo kịp tất cả các tín hiệu do
ông Mackenzie đánh đi. Sau 3 tháng học hỏi, không những Al tiến bộ
đến nỗi ông Mackenzie phải gọi Al là chuyên viên điện báo hạng nhất,
và Al còn chế tạo được một máy điện tín có đầy đủ tính cách toàn hảo
cũng như cho phép người xử dụng máy gửi điện tín đi thật nhanh
chóng.
Trong thời kỳ Nội Chiến Nam Bắc Mỹ, hàng trăm điện tín viên bị gọi
nhập ngũ vào các đội truyền tin. Kết quả của sự kiện này là các công
ty thương mại cũng như hỏa xa thiếu chuyên viên. Vì thế xin một chân
làm việc về điện tín là một điều dễ dàng và một người mới học nghề
cũng có thể kiếm được việc. Vào khoảng năm 1864, Al nhận thấy có đủ
khả năng nhận một chân điện tín viên nên từ bỏ nghề bán báo và tới
Stradford, Gia Nã Đại, xin làm việc vào tháng 5. Al trở thành điện
tín viên tại ga Stratford này và lãnh lương mỗi tháng 25 đô la.
Từ năm 1864 tới năm 1868, Al đã làm việc tại nhiều nơi như New
Orleans, Indianapolis, Louisville, Memphis và Cincinnati. . . Chàng
thanh niên này cũng bắt đầu bỏ cách gọi tắt là Al mà dùng tới tên
chính là Thomas hay cách gọi thân mật là Tom.
Thomas Edison bây giờ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, nhiều thiện
cảm và vui tính. Sự cởi mở, lòng chân thật đã khiến Tom có nhiều bạn
nhưng cách làm việc đặc biệt của Tom đã khiến cho các bạn bè cho
chàng là người kỳ quặc. Tom ăn mặc giản dị, quần áo cũ kỹ và dính
mực, đôi giày của chàng mòn đế cũng không khiến chàng nghĩ đến việc
thay đôi mới. Vào mùa lạnh, Tom cố chịu rét hơn là bỏ tiền mua một
áo choàng bằng nỉ vì chàng đã dồn tiền vào việc mua sắm các sách vở
khoa học và dụng cụ thí nghiệm.
Vào đêm hôm 14/ 4/1865, cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ chấm dứt, làm cho
hàng trăm điện tín viên mất việc. Tom Edison trở về Louisville rồi
tới cuối năm 1868, từ biệt cha mẹ đi Boston để nhận chân chuyên viên
điện tín. Năm 21 tuổi, Tom thực hiện được phát minh đầu tiên, đó là
một máy đầu phiếu. Tom gửi sáng kiến này tới Phòng Văn Bằng Sáng Chế
rồi đưa trình lên Quốc Hội, nhưng vào thời đó không nghị sĩ nào ưa
thích thứ máy móc tân kỳ đó. Mặc dù thất bại, Tom lại bắt đầu làm
nhiều việc khác. Chàng đã chế ra được một máy điện báo cùng một lúc
gửi đi hai điện tín trên một đường dây.
4/ Thời kỳ thành công.
Vào một buổi sáng tháng 6 năm 1869, con tầu khởi hành từ Boston tiến
dần vào hải cảng New York. Edison, chàng thanh niên 22 tuổi, đứng
trên boong tầu, mơ màng nhìn vào thành phố xa lạ, không người quen
biết, trong túi không có một đồng nào bởi vì chàng đang mang nợ 800
đô la. Edison rời Boston với hai bàn tay trắng vì chàng đã để lại
tất cả các dụng cụ thí nghiệm cùng sách vở cho chủ nợ, hứa sẽ trở
lại lấy khi có đủ tiền thanh toán. Nhưng có nhiều thứ mà không ai có
thể lấy bớt được ở chàng, đó là lòng cam đảm, ý chí theo đuổi mục
đích, học vấn và kinh nghiệm kỹ thuật cùng với các đức tính khác mà
chàng đã thu lượm được vào thời niên thiếu.
Ngày đầu tiên tại New York, Tom đi tới tất cả các cơ sở điện báo để
tìm kiếm người quen và đã vay mượn được một đô la. Sống với đồng
tiền nhỏ mọn này cho tới ngày thứ ba, Tom khi đi qua Công Ty Hối
Đoái Gold Indicator thì thấy hàng trăm người đang chen chúc chờ đợi.
Tom tiến lại gần thì được biết rằng chiếc máy ghi giá vàng bị trục
trặc và vì thế thị trường vàng hoàn toàn bị trở ngại. Khi đó viên
giám đốc của công ty, Bác Sĩ Laws, đang la ầm lên : “Tôi trả lương
cho hàng tá người mà chẳng ai làm được việc gì ! Ôi, tôi chỉ cần một
người thợ có tài là đủ!”. Nghe thấy vậy, Tom tiến lại gần ông Laws
và nói : “Thưa ông, tôi không phải là thợ của ông nhưng tôi tự xét
có thể sửa chữa được chiếc máy”. Trong vòng hai giờ, chiếc máy do
Tom sửa chữa lại chạy đều như trước. Ngày hôm sau, sau khi khảo sát
khả năng, Bác Sĩ Laws đã thuê Tom làm quản đốc kỹ thuật với lương
tháng 300 đô la.
Mặc dù lương bổng cao, Tom Edison luôn chán nản trước hoàn cảnh làm
công cần cù vì trong đầu óc của chàng đang chứa đựng hàng tá sáng
kiến sôi động. Trong khoảng thời gian làm việc tại công ty hối đoái,
Edison được gặp Franklin L. Pope và hai người bàn với nhau hợp tác
trong một công cuộc kinh doanh. Ngày 01/ 10/1869, Edison và Pope lập
ra xưởng điện cơ và điện báo rồi ít lâu sau, lại có J. N. Ashley của
tờ báo Telegraph cộng tác. Để sống gần người bạn cộng sự, Edison dọn
nhà tới thị xã Elizabeth, thuộc tiểu bang New Jersey. Vì muốn tiết
kiệm thời giờ dùng cho các công việc cần thiết, Edison tự luyện tập
các giấc ngủ thật ngắn, mỗi ngày ngủ 3 hay 4 lần. Ngoài 5 giờ để
ngủ, thời gian được chàng dùng cho các cải tiến kỹ thuật và công
việc chuyên môn.
Vào thời bấy giờ, điện tín được ghi bằng các chấm và gạch in trên
những băng giấy dài, rồi người ta lại phải chép tay ra các bản điện
tín trước khi gửi cho người nhận. Nếu có cách nào in bằng chữ lên
các phiếu điện tín, người ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian
vô giá. Điều này làm Edison suy nghĩ. Vì Edison nổi tiếng về giỏi Kỹ
Thuật, Tướng Marshall Lefferts, giám đốc công ty Gold and Stock
Telegraph liền nhờ Edison biến đổi loại máy thường ra máy điện tín
in chữ. Sau vài tháng tìm tòi, Edison đã thành công và lấy bằng phát
minh vào năm 1869. Máy móc mới này của Edison vừa giản dị hơn, vừa
chính xác hơn loại cũ nên đẵ khiến ông Lefferts đề nghị mua lại bằng
sáng chế.
Công việc làm ăn của Edison tăng lên một cách rất nhanh chóng khiến
chàng và các hội viên khác đồng ý đổi cơ xưởng cũ thành Công Ty Điện
Báo Tự Động (The Automatic Telegraph Co.). Lúc đầu chàng chỉ mướn 18
người thợ rồi số thợ tăng lên dần tới 50 và sau này tới 250 người.
Nhiều người làm việc với Edison đã trở nên các kỹ sư tài ba và đã
cộng tác với chàng cho tới chết. Edison chia thợ ra từng toán, làm
từng phiên cả sáng lẫn đêm. Mặc dù mới 23 tuổi, Edison được nhiều
người tặng cho biệt hiệu “lão già” vì chàng điều kiển nhóm chuyên
viên của mình một cách chín chắn, đôi khi hơi tàn ác nhưng ngược
lại, chàng trả lương các nhân viên rất hậu, căn cứ vào tài khéo và
thời gian làm việc vì chàng muốn họ đóng góp với tất cả lương tâm
nghề nghiệp.
Vóc người mập mạp, Thomas Edison có đôi mắt sắc sảo dưới hàng mi rậm
rạp và chiếc trán rộng. Với dáng đi nặng nề, chàng đi đi, lại lại
trong xưởng, quần áo vừa bẩn lấm, vừa tả tơi, mang vào mình hình ảnh
một tên vô nghề nghiệp hơn là một viên đốc công, một vị giám đốc và
cũng là một kỹ nghệ gia đầy tương lai hứa hẹn. Thực vậy, người ta
phải ngạc nhiên về cơ xưởng của Edison, không những do các hoạt động
mà còn vì giờ giấc. Edison đã treo trong xưởng tất cả 6 chiếc đồng
hồ, chỉ các giờ giấc khác nhau và nhân viên của chàng thường theo
chàng làm đến hết việc chứ không phải hết giờ. Trong khoảng thời
gian từ năm 1870 tới 1876, bắt đầu với tuổi 23, Thomas Edison đã cầu
chứng 122 phát minh và như thế, mỗi tháng trung bình chàng có hơn
một sáng kiến được thực hiện.
Vào thời kỳ của phát minh thứ 46, Thomas Edison được nghe người ta
kể lại rằng Christopher Sholes tại Milwakee đang thí nghiệm về một
thứ máy móc gọi là “máy đánh chữ”. Vì biết rằng thứ máy mới này sẽ
góp phần to lớn trong việc chế tạo máy điện báo tự động, Edison liền
mời Sholes mang mẫu máy tới Newark và chàng đã đề nghị nhiều sửa đổi
hợp lý. Công Ty The Automatic Telegraph là nơi đầu tiên chế tạo máy
đánh chữ rồi dùng nó trong văn phòng và chiếc máy đánh chữ đó đã mở
đường cho các máy Remington mà sau này được dùng trên khắp thế giới.
Nếu Morse phát minh ra máy điện báo thì Edison lại góp vào đó rất
nhiều cải tiến quan trọng khiến cho chính Morse cũng khó nhận ra
được phát minh của mình. Không những Edison hoàn thành máy điện báo
kép cho phép gửi đồng thời 2 điện tín trên cùng một đường dây mà còn
phát minh ra một phương pháp gửi đồng thời 4 hay 5 điện tín. Edison
còn cứu vãn Công Ty Western Union khỏi bị phá sản bằng một hệ thống
truyền tin mới.
Vào một buổi chiều năm 1870, Edison ngồi một mình trong văn phòng.
Các thợ thuyền đã ra về trong khi nhà phát minh còn nán lại vì chàng
muốn ghi chép cho xong các nhận xét về một thứ máy đang hoàn thành.
Edison định ra về thì một trận mưa lớn đổ xuống. Lúc ra cửa, chàng
gặp hai thiếu nữ đứng trú mưa tại lối đi. Edison liền tự giới thiệu
: “Tôi là Thomas Edison, chủ nhân tiệm này. Xin mời các cô vào văn
phòng chờ hết mưa. Tôi sẽ đi thắp đèn lên”. Một thiếu nữ trả lời
chàng : “Chúng tôi không dám phiền ông, ông Edison ạ. Tôi là Mary
Stilwell, còn đây là em Alice của tôi”. Edison cúi chào hai thiếu nữ
và nói chuyện xuông với hai chị em Stilwell cho qua thời giờ. Nhưng
ánh mắt trong sáng, khuôn mặt xin xắn và cử chỉ thanh lịch của Mary
đã làm tâm hồn Edison xao xuyến.
Từ đây, Edison không thể quên hình ảnh của Mary. Chàng hỏi dò bạn bè
thì được biết Mary là một giáo viên tại Newark. Edison liền nhờ bạn
đưa lại thăm gia đình Stilwell và sau buổi viếng thăm, chàng thấy
rằng mình đã tìm được người vợ mong ước. Sau đó, Edison thường cùng
Mary đi coi hát, dự các buổi hòa tấu nhạc hay đi cắm trại ngoài
trời. Sau một năm trường chờ đợi sự ưng thuận của gia đình Stilwell,
Edison đã cử hành hôn lễ với Mary vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1871.
Cuối năm 1871, Edison đã có ba tiệm khác nhau tại Newark. Ba cơ
xưởng ở rải rác trong một thành phố lớn đã làm mất nhiều thời giờ và
năng lực quý báu của nhà phát minh. Vì vậy Edison quyết định tìm
kiếm nơi xây cất một cơ xưởng lớn hơn cách Newark 40 cây số. Menlo
Park là một ga nhỏ trong tiểu bang New Jersey nhưng khá yên tĩnh,
thích hợp cho nhà phát minh làm việc. Ngày 3/ 01/1876, công cuộc xây
cất bắt đầu. Edison đã phác họa từng chi tiết cho đồ án phòng thí
nghiệm và cơ xưởng.
Cũng trong năm này, công ty Western Union lại nhờ Edison cải tiến
máy điện thoại của Alexander Graham Bell vừa mới cầu chứng cách đó
ít lâu. Thời bấy giờ, điện thoại của Bell là một bộ máy còn rắc rối,
ống nói và loa nghe được làm chung, và người ta để loa lên miệng để
nói rồi đặt vào tai nghe. Tầm hoạt động của máy bị giới hạn và dù
nói từ phòng nọ sang phòng kia, những tiếng sè sè của máy sinh ra do
bộ ma nhê tô đã làm cho việc đối thoại rất khó khăn. Sau hai năm tìm
tòi, Edison đã phát minh ra bộ vi âm (microphone), hoàn thành một
máy truyền (transmetteur) dùng thỏi than và đã thành công rực rỡ
trong việc truyền tiếng nói qua 225 cây số đường dây. Edison làm cho
cường độ tiếng nói qua máy điện thoại lớn gấp bội và âm thanh trở
nên rõ ràng. Hãng Western Union đã mua lại bằng sáng chế chiếc máy
truyền với giá 100,000 đô la. Thành công của Edison trong việc cải
tiến máy điện thoại đã khiến người đời phải nói rằng “Bell đã phát
minh ra máy điện thoại nhưng chính nhờ Edison mà máy điện thoại trở
thành hữu dụng”.
5/ Phát minh ra Máy Hát.
Lúc bấy giờ Edison đã có phòng thí nghiệm tại Menlo Park, một nơi có
đủ phương tiện cho nhà phát minh tìm tòi, nghiên cứu. Edison có một
cách làm việc rất đặc biệt. Khi một ý tưởng nẩy ra trong trí óc, ông
liền thử ngay bằng ngàn cách khác nhau với sự cộng tác của những
người giúp việc. Vào thời đó, mặc dù nhà phát minh có hàng trăm bằng
sáng chế nhưng danh tiếng của Edison chỉ thực sự được đại chúng biết
tới sau ngày ông cho ra đời chiếc máy hát.
Thực ra sự phát minh này do khả năng nhận xét và suy luận của ông
hơn là do công lao tìm kiếm. Vào một chiều mùa hè năm 1877, trong
khi Edison đang loay hoay với chiếc máy dịch điện tín tự động, chiếc
máy này gồm một mũi kim thép rạch các rãnh trên một đĩa giấy, đột
nhiên khi cho đĩa quay nhanh hơn Edison đã nghe thấy tiếng cọ sát
tăng lên và giảm đi tùy theo sự gồ ghề của chiếc đĩa. Sự kiện này đã
ám ảnh nhà phát minh. Ông liền làm lại thí nghiệm nhưng lần này,
thêm vào chiếc kim bộ phận chứa một màng mỏng. Edison nhận thấy cơ
phận này đã làm tăng âm độ lên một cách đáng kể.
Các công trình khảo cứu về máy điện thoại đã khiến Edison nhận thức
rằng một màng kim loại mỏng đã rung động khi nói vào một máy phát.
Như thế có thể ghi lại sự rung động này trên một chất gì đó để rồi
làm cho màng kim loại rung động trở lại mà phát ra các âm thanh như
tiếng nói. Nửa đêm hôm đó, Edison ngồi lại văn phòng và vẽ trên giấy
một bức họa về thứ máy móc sẽ thực hiện. Ngày 24/12/1877, Edison cầu
chứng cho chiếc máy hát và bằng phát minh được chính phủ Hoa Kỳ cấp
cho ông vào ngày 19/ 02/1878.
Một bộ máy ghi được tiếng nói và lại phát ra tiếng nói làm cho đại
chúng phải bàn tán. Để làm cho mọi người tin chắc rằng máy hát nói
được là một sự thật, Edison quyết định trình bày chiếc máy kỳ lạ
trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoa Kỳ. Sáng ngày 8/ 4/1878, nhà phát
minh Edison đã xử dụng chiếc máy hát trước ông Joseph Henry, Chủ
Tịch Viện Smithsonian, rồi vào buổi chiều, ông biểu diễn máy trước
Hàn Lâm Viện Khoa Học. Ngay buổi tối hôm đó, Edison lại nhận được
giấy mời trình bày máy hát trước Tổng Thống Rutherford B. Hayes. Nhà
phát minh đã làm cho các nhân vật Tòa Bạch Cung cũng như dân chúng
tin tưởng. Cả thế giới sôi nổi về phát minh này. Danh tiếng Thomas
Edison được nhắc nhở tại khắp nơi. Báo chí đã nói nhiều về nhà phát
minh 31 tuổi. Môt tờ báo gọi Edison là “Thầy Phù Thủy vùng Menlo
Park” và danh hiệu này đã được phổ thông hóa.
Chiếc máy hát là một phát minh mà Edison rất ưa chuộng. Ông đã cải
tiến máy dần dần trong nhiều năm trường để về sau này, máy được thay
đổi khối trụ và tay quay bằng một đĩa tròn chuyển động do một bộ
phận đồng hồ. Sự sản xuất máy hát càng ngày càng gia tăng, vào năm
1910 tiền bán máy và đĩa hát đã lên tới 7 triệu đô la. Vào năm 31
tuổi, Thomas Edison có 157 bằng phát minh và đang chờ đợi 78 bằng
sáng chế khác từ Washington gửi về. Mặc dù vậy, ông vẫn không ngừng
làm việc, mỗi ngày từ 18 tới 20 giờ.
6/ Phát minh ra Đèn Điện.
Tháng 3 năm 1878 là đầu thời kỳ Edison bắt tay vào việc nghiên cứu
đèn điện. Vào thời bấy giờ người ta chỉ biết tới nguyên tắc của đèn
hồ quang là loại đèn được phát minh vào khoảng năm 1809. Khi đốt đèn
hồ quang, người ta phải luôn luôn thay thỏi than, ngoài ra đèn còn
phát ra tiếng cháy sè sè và cho một sức nóng quá cao, kèm theo một
mùi khó chịu, không thích hợp với việc xử dụng trong nhà.
Vào năm 1831, Michael Faraday tìm ra nguyên tắc của máy ma-nhê-tô là
bộ máy sinh ra các tia lửa đốt loại khí bên trong động cơ dầu lửa.
Tới năm 1860, một loại đèn điện sơ sài ra đời tuy chưa thực dụng
nhưng đã khiến cho người ta nghĩ tới khả năng của điện lực trong
việc làm phát sáng. Thomas Edison cũng cho rằng điện lực có thể cung
cấp một thứ ánh sáng dịu hơn, rẻ tiền hơn và an toàn hơn ánh sáng
của đèn hồ quang của William Wallace. Edison đã tìm đọc tất cả các
sách báo liên quan tới điện học. Ông muốn thấu triệt sâu rộng lý
thuyết về điện lực để có thể mang kiến thức của mình vào các áp dụng
thực tế. Ngày nay trong số 2,500 cuốn sổ tay 300 trang được Viện
Edison cất giữ, người ta còn thấy hơn 200 cuốn ghi chép về điện học.
Chính những điều ghi chép này đã là căn bản của các khám phá vĩ đại
của thiên tài Edison trong phạm vi Khoa Học và Kỹ Thuật.
Thời bấy giờ, báo chí nói nhiều đến công cuộc nghiên cứu của Edison
về đèn điện làm cho các công ty đèn thắp bằng khí đốt lo ngại trong
khi đó Edison khuyên các hội viên của Công Ty Đèn Điện Edison (the
Edison Electric Light Co.) bỏ thêm 50,000 đô la để ông theo đuổi
công trình nghiên cứu. Hồi đó trong phòng thí nghiệm tại Menlo Park
có vào khoảng 50 người làm việc không ngừng. Bình điện, dụng cụ, hóa
chất và máy móc chất cao trong các phòng nghiên cứu. Đồng thời với
việc nghiên cứu đèn điện, Edison còn phải cải tiến rất nhiều máy móc
khác cũng như tìm ra các kỹ thuật cần thiết vì vào thời bấy giờ, kỹ
nghệ điện lực còn trong giai đoạn phôi thai. Cũng nhờ nghiên cứu đèn
điện, Edison đã sáng chế ra cầu chì, cái ngắt điện, đynamô, các lối
mắc dây. . .
Căn cứ từ đèn hồ quang của Wallace, Edison thấy rằng có thể có ánh
sáng từ một vật cháy sáng bằng cách đốt nóng. Edison đã dùng nhiều
vòng dây kim loại rất mảnh rồi cho dòng điện có cường độ lớn đi qua
để những vòng dây đó nóng đỏ lên, nhưng chỉ sau chốc lát, các vòng
đó đều cháy thành than. Vào tháng 4 năm 1879, Edison nẩy ra một sáng
kiến. Ông tự hỏi cái gì sẽ xẩy ra nếu sợi dây kim loại được đặt
trong một bóng thủy tinh không chứa không khí? Edison liền cho gọi
Ludwig Boehm, một người thợ thổi thủy tinh tại Philadelphia tới
Menlo Park và phụ trách việc thổi bóng đèn. Việc rút không khí trong
bóng đèn cũng đòi hỏi một máy bơm mạnh mà vào thời đó chỉ có tại
trường đại học Princeton. Cuối cùng Edison cũng mang được chiếc máy
bơm đó về Menlo Park.
Edison thử cho một sợi kim loại rất mảnh vào trong bóng thủy tinh
rồi rút không khí ra hết, khi nối dòng điện, ông có được thứ ánh
sáng trắng hơn, thời gian cháy cũng lâu hơn nhưng chưa đủ. Ngày 12/
04/1879, để bảo vệ phát minh của mình, Edison xin bằng sáng chế về
bóng đèn cháy trong chân không mặc dù ông biết rằng loại đèn này
chưa hoàn hảo vì ông chưa tìm ra được một thứ gì dùng làm tóc trong
bóng đèn. Edison đã dùng sợi Platine nhưng thứ này quá đắt tiền lại
làm tốn nhiều điện lực hơn là cho ánh sáng hữu ích. Edison đã thử
với nhiều thứ kim loại hiếm, chẳng hạn như Rhodium, Ruthenium,
Titane, Zirconium và Baryum nhưng tất cả những chất đó chưa cho kết
quả khả quan.
Vào 3 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 19/ 10/ 1879, trong khi Edison và
Batchelor, người cộng sự, đang cặm cụi thí nghiệm thì nhà phát minh
chợt nghĩ tại sao không dùng một sợi than rất mảnh. Edison nghĩ ngay
tới thứ thường dùng nhất trong nhà là sợi chỉ may. Ông liền bảo
Batchelor đốt cháy sợi chỉ để lấy các sợi than rồi cho vào bóng đèn.
Khi nối dòng điện, đèn cháy sáng, phát ra một thứ ánh sáng không đổi
và chói chan. Edison và các cộng sự viên thở ra nhẹ nhõm. Nhưng mọi
người đều không rõ đèn cháy sáng như vậy được bao lâu? 2 giờ trôi
qua, rồi 3, 4. . . rồi 12 giờ. . . đèn vẫn sáng. Edison đành nhờ các
cộng sự viên thay thế để đi ngủ. Chiếc đèn điện đầu tiên của Thomas
Edison đã cháy liền trong hơn 40 giờ đồng hồ khiến cho mọi người hân
hoan, tin tưởng vào kết quả. Lúc đó, Edison mới tăng điện thế lên
khiến cho sợi dây cháy sáng gấp bội rồi đứt hẳn.
Rất hãnh diện về phát minh của mình, Edison viết thư mời viên chủ
nhiệm tờ báo New York Herald gửi đặc phái viên tới Menlo Park. Ký
giả Marshall Fox đã tới phòng thí nghiệm của Edison và cùng nhà phát
minh làm việc trong hai tuần lễ. Sáng Chủ Nhật 21/12/1879, tờ báo
Herald tường thuật về sự phát minh ra chiếc đèn điện nhưng bài tường
trình này đã làm đại chúng nghi ngờ và có người còn cho rằng “một
thứ ánh sáng như vậy trái với định luật thiên nhiên”. Có nhà báo lại
khôi hài câu chuyện và bảo “đèn điện của Edison đã được ông dùng
bóng bay thả lên trời thành những ngôi sao lấp lánh ban chiều”.
Edison rất buồn cười về những lời phủ nhận sự thật. Ông quyết định
trình bày trước đại chúng chiếc đèn điện để phá tan mọi mối hoài
nghi. Ông cho treo hàng trăm bóng đèn điện quanh phòng thí nghiệm,
quanh nhà ở và dọc theo các con đường tại Menlo Park. Ngày
31/12/1879, một chuyến xe lửa đặc biệt đã xuôi ngược New York -
Menlo Park, mang theo hơn 3,000 người hiếu kỳ gồm cả các nhà khoa
học, các giáo sư, các nhân viên chính quyền cũng như các nhà kinh
tài tới quan sát tận mắt chiếc đèn điện. Đêm hôm đó cả vùng Menlo
Park tràn ngập trong ánh sáng chan hòa của một thứ đèn mới.
7/ Công Ty Đèn Điện Edison.
Thành công của chiếc đèn điện làm cho công ty khí thắp xuống dốc
trong khi đó, Edison vẫn cho rằng đèn điện chỉ đắc dụng khi nào ông
tìm ra được một thứ sợi tóc rẻ và bền hơn. Ông cho thử hơn 6,000 thứ
sợi thảo mộc, cuối cùng đã chọn một thứ tre Nhật Bản và loại sợi này
đã được dùng trong suốt 10 năm trường trước khi bị chất Tungstène
thay thế.
Edison lại tính tới việc dùng điện lực thắp sáng một khu vực rộng
lớn hơn. Ông quyết định dùng một quận trong thành phố New York rộng
2,500 mét vuông làm nơi thí nghiệm. Ông tìm ra nhiều phương pháp
cách điện và chính ông trông coi việc đặt đường dây. Vào năm 1881,
số chuyên viên về điện lực rất hiếm. Edison liền mở ra một trường
dạy nghề và đặt những cộng sự viên cũ của mình vào các chân giảng
viên. Chính ông cũng viết ra một cuốn sách kỹ thuật về điện học. Nhờ
cách làm việc có phương pháp như vậy, sang năm sau Edison đã có hơn
1,500 người chuyên đào đường, đặt đường dây và bắt dây điện vào tư
gia. Một nhu cầu mới cần thiết nữa lại được đặt ra là việc thiết lập
một nhà máy phát điện mạnh. Việc này đòi hỏi nhiều triệu đô la. Một
công ty vì thế được thành lập với tên là Công Ty Đèn Điện Edison tại
New York (the Edison Electric Lighting Company of New York).
Edison lập ra một xưởng chế tạo các thành phần của máy phát điện,
một xưởng chuyên làm bóng đèn điện và một cơ xưởng đặc biệt chuyên
sản xuất các đồng hồ điện, các đui đèn, ngắt điện cùng các phụ tùng
cần thiết cho ngành kỹ nghệ mới này.
Từ trước, công ty khí thắp độc quyền phụ trách việc đốt đèn các con
đường và cung cấp khí đốt cho dân chúng. Edison muốn thay thế những
phương tiện thắp sáng cũ đó bằng một cách khác, vừa tiện lợi hơn,
vừa rẻ tiền hơn. Ông biết rằng ông đã tham dự một cuộc mạo hiểm rất
khó khăn, nếu thất bại, ông sẽ mất hết danh tiếng, tiền bạc và tín
nhiệm của dân chúng cũng như của bạn bè. Nhưng Edison vẫn không sờn
lòng. Ông tuyên bố rằng tiền phí tổn về điện lực sẽ rẻ hơn tiền khí
thắp và ông chỉ nhận tiền của thân chủ khi nào họ thấy thỏa mãn về
cách cung ứng điện lực. Cuộc thí nghiệm đại quy mô này đã khiến
Edison phải từ chối đi dự các bữa tiệc, các buổi diễn thuyết. . .
Người ta thường thấy nhiều đêm ông Edison, với chiếc khăn quàng quấn
quanh cổ, bước xuống những đường rãnh đặt dây điện hoặc trông coi
việc thiết lập nhà máy điện trên đường Pearl.
Tới ngày 4 tháng 9 năm 1882, tất cả các công tác thiết kế đã hoàn
thành và sẵn sàng chờ đợi sự thí nghiệm. Tại nhà máy phát điện đường
Pearl, người thợ đổ than vào lò, các động cơ bắt đầu chuyển vận,
Edison hạ chiếc cần xuống và trong khoảng khắc, dòng điện đi qua 24
cây số đường dây khiến cho hàng trăm bóng đèn Edison cháy sáng trong
các công sở, cơ xưởng và các tư gia. Ông Thomas Edison đã thắng cuộc
và lấy lại được niềm tin của toàn thể dân chúng.
Mặc dù là một nhà kỹ thuật có tài, Edison rất ghét sự trục lợi, đầu
cơ. Khi đã đạt được các công trình nghiên cứu rồi, Edison lấy làm
thỏa mãn về sự thành công mà coi thường các lời lãi do phát minh của
mình mang tới. Edison đã bán xưởng chế tạo bóng đèn cho một công ty
điện và công ty này về sau trở nên rất phát đạt và nổi danh trên thế
giới : Công Ty General Electric.
Hai năm sau ngày thành công về đèn điện, bà Mary mắc bệnh thương hàn
và qua đời, để lại cho chồng ba đứa con và lòng thương nhớ. Quá buồn
phiền, Edison gửi các con về ông bà ngoại tại New York còn mình thì
tìm quên trong phòng thí nghiệm. Edison nhận thấy cần phải có một cơ
xưởng rộng lớn hơn cơ xưởng Menlo Park. Ông đã chọn thành phố West
Orange, thuộc tiểu bang New Jersey. Công việc xây cất được bắt đầu.
Cũng trong thời gian này, Edison cho thiết lập thêm một phòng thí
nghiệm để làm việc trong mùa đông, vì thế một cơ xướng mới được lắp
ráp tại Fort Myers, một nơi gần bờ biển trong tiểu bang Florida.
Trong khoảng thời gian từ năm 1881 tới năm 1887, Thomas Edison
nghiên cứu nhiều thứ và phát minh ra các máy móc thuộc nhiều loại.
Ông đã tìm ra cách gửi điện tín từ một ga tới một xe lửa đang chạy.
Ông đã thử cách cất giữ trái cây trong chân không, phác họa ra máy
bay trực thăng, máy gặt bông gòn, máy may điện, thang máy điện, xe
lửa điện, xe gạt tuyết và ông khảo cứu cả về vô tuyền điện. Ngày nay
“hiện tượng Edison” còn được áp dụng vào các bóng đèn máy vô tuyến
truyền thanh.
Công việc quá bận rộn đã khiến Edison quên bớt nỗi buồn phiền về
người vợ đã khuất. Ông bắt đầu cảm thấy cần phải ra khỏi tháp ngà.
Người ta thường thấy ông đi dự các buổi trình diễn âm nhạc hay có
mặt tại các bữa yến tiệc. Vào một buổi chiều năm 1885, trong một bữa
ăn do một người bạn tổ chức, Edison đã gặp một thiếu nữ rất đẹp và
duyên dáng, hôm đó đang ngồi tại đàn dương cầm. Nàng tên là Mina
Miller, là con gái của ông Lewis Miller, một kỹ nghệ gia và cũng là
người phát minh ra chiếc máy gặt lúa. Hai người trở nên đôi bạn
thân.
Lần gặp gỡ cô Mina đã làm cho Edison hết cô đơn. Edison đã dạy cho
Mina tín hiệu Morse vì ông kém về thính giác. Trong một buổi đi coi
hát, Edison đã dùng tín hiệu Morse để hỏi cảm tình của Mina đối với
ông. Cô Mina cũng đáp lại bằng thứ tín hiệu đó. Hai người cưới nhau
vào năm 1886, khi đó chàng 39, nàng 21 tuổi, nhưng sự chênh lệch về
tuổi tác không là hàng rào ngăn cách hai người. Edison thường ăn mặc
lôi thôi như một đứa trẻ và Mina đã săn sóc chồng từng chút một.
Mina thường dấu chiếc áo ngoài của chồng nên khi muốn ra đường,
Edison phải gọi tới nàng, đó là lúc nàng kiểm soát cách ăn mặc, bắt
chồng phải cạo râu, chải tóc.
Mina còn săn sóc Edison cả về sự ăn uống. Chính nàng tự tay mang
thức ăn tới phòng thí nghiệm cho chồng và luôn luôn khuyến khích
chồng bằng những lời nói êm dịu. Nếu Mary Stitwell, người vợ thứ
nhất của Edison, là người đã góp phần quan trọng vào các thành công
đầu tiên thì Mina Miller lại là người bạn trung thành và cộng sự
viên đắc lực của Edison. Nàng luôn luôn theo chồng trong các chuyến
du lịch hay tham dự những buổi yến tiệc, nàng nhắc lại cho Edison
những gì ông không nghe rõ. Trong các buổi tiếp tân tại nhà, các bạn
của Edison đã tặng Mina danh hiệu “Bà chủ nhà duyên dáng nhất Mỹ
Quốc”. Mina còn làm cho gia đình Edison gồm 4 trai, 2 gái, trong đó
có 3 người con của Mary, tất cả đều cảm thấy hạnh phúc.
8/ Phát minh ra Máy Chiếu Bóng.
Vào một buổi chiều năm 1887, Thomas Armat tới thăm Edison và đưa cho
nhà phát minh xem một máy chiếu hình, khi đó chưa hoàn hảo. Armat
biết rằng chỉ có Edison mới có đủ tài cải biến máy móc đó ra một thứ
có ích lợi thực tế. Khi nhìn thấy chiếc máy kinematoscope (do chữ Hy
Lạp kinema là chuyển động), Edison nhận ra ngay giá trị của nó. Ông
đã bỏ ra 4 năm công sức vào việc cải tiến máy chiếu bóng và chế tạo
máy quay phim và như vậy, đã mở đầu cho một ngành kỹ nghệ rộng lớn
trên thế giới, chuyên cung cấp món giải trí bình dân nhất.
Edison đã bỏ ra 100,000 đô la để lập phim trường tại Bronx Park. Ông
đã thuê võ sĩ vô địch quyền Anh hạng năng tên là James J. Corbett
tới Orange biểu diễn, để quay thành phim. Edison đã sản xuất được
nhiều cuốn phim và còn cho phối hợp chiếc máy hát vào việc chiếu
phim nói.
Khi kỹ nghệ chiếu bóng bắt đầu phát triển, Edison lại quay sang các
lãnh vực mới. Ông làm nhiều thí nghiệm về quang tuyến X, thời đó vừa
được Roentgen tìm ra. Công trình nghiên cứu của ông khiến ông chế
tạo được máy huỳnh quang nghiệm (fluoroscope) và đèn huỳnh quang
(lampe fluorescente). Edison còn lấy bằng phát minh cho bình ắc quy,
loại đèn điện an toàn dùng trong hầm mỏ, cải tiến máy tính, tìm ra
hợp chất sắt nickel. . . Ngoài ra còn rất nhiều phát minh nhỏ mọn
khác mà ngày nay đối với chúng ta coi là tầm thường nhưng ở vào thời
kỳ đó chưa có ai nghĩ tới cả.
Vào tuổi 60, Thomas Edison vẫn còn làm việc hăng hái như xưa. Ông đã
“giải trí bằng cách thay đổi công việc làm”. Người ta hỏi ông về
nghệ thuật của “Thành Công” và được ông trả lời : “Đó là khả năng
kiên nhẫn”. Ông đã định nghĩa : “Thiên tài gồm 2 phần trăm cảm hứng
và 98 phần trăm cực nhọc”. Edison cho rằng cách làm việc miệt mài
bằng trí óc chính là bí quyết của sức khỏe và sự sống lâu, và ông
còn nói thêm “Tôi chỉ cần tới thân xác để nuôi dưỡng bộ óc”.
Năm Thomas Edison 67 tuổi, một trận hỏa hoạn đã đốt sạch 7 dãy nhà
không bảo hiểm tại West Orange, thiệt hại lên tới 5 triệu đô la.
Edison đã mỉm cười với số phận. Ông liền bắt tay vào việc thiết lập
lại cơ xưởng cũ.
Vào năm 1915, chính quyền Hoa Kỳ dự định tổ chức một cuộc triển lãm
tại San Francisco, lấy tên là Cuộc Triển Lãm Panama Thái Bình Dương
(Panama Pacific Exposition) để kỷ niệm ngày hoàn thành Kênh Đào
Panama. Ban tổ chức Cuộc Triển Lãm có nhã ý dành ngày 21/10 làm
“Ngày Edison”. Vào sáng ngày 21/10/1915 đó, ngày sinh nhật thứ 36
của chiếc đèn điện, Thomas Edison cùng Luther Burbank và Henry Ford
tới thăm Phòng Triển Lãm. 50,000 người đã đứng hai bên đường để đón
chào ba nhân vật đã mở mang con đường dẫn tới Văn Minh. Tại Phòng
Đại Hội, Edison đã nhận lãnh huy chương đặc biệt trước hàng ngàn dân
chúng hâm mộ và huy chương này được trao tặng về các công trình tốt
đẹp mà ông đã thực hiện cho Nhân Loại.
Ngày 28/ 6/1914, Trận Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ và lan dần tới Mỹ
Quốc khiến cho quốc gia này cũng bị liên hệ. Các nhà Khoa Học và
Phát Minh đều theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Mặc dù gần 70 tuổi, Thomas
Edison cũng tình nguyện gia nhập Hải Quân và nhận làm Chủ Tịch Ủy
Ban Cố Vấn Kỹ Thuật với lòng mong ước mang lại Vinh Quang cho Hoa
Kỳ. Trong thời gian này, ông Edison đã phát minh ra máy dò tầu ngầm
và thủy lôi, đèn soi sáng dưới nước và phương pháp ngụy trang tầu
chiến. . . Hơn 40 phát minh có tính cách chiến thuật của ông đã mang
lại cho ông Quân Công Bội Tinh (the Distinguished Service Medal),
một trong những huy chương cao quý nhất của Quân Lực Hoa Kỳ.
9/ Danh vọng cuối cùng.
Từ năm 12 tuổi tới lúc già, Thomas Edison đã làm việc miệt mài mà
không biết mỏi. Ông đã tự học từ năm lên 7 tuổi, khi bà Nancy kéo
con về nhà. Ông Edison là một người đọc sách không biết mệt và
thường hay thực hiện 6 dự án cùng một lượt. Lúc 70 tuổi, ông còn coi
mình như một người đang độ sung sức.
Năm 1918 khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, ông Edison trở về phòng
thí nghiệm và bắt tay vào việc nghiên cứu một chất cần thiết cho cả
thời chiến lẫn thời bình : chất cao su. Tới năm 75 tuổi, ông Edison
mới chịu giảm bớt thời giờ làm việc xuống 16 giờ một ngày. Ông thực
hiện thứ đĩa hát quay lâu (disque de longue durée) vào năm 80 tuổi.
Ngày 21/ 10/1929, ông Thomas Edison được mời làm khách danh dự trong
một bữa tiệc tổ chức tại Detroit. Tối hôm đó Tổng Thống Hoa Kỳ
Herbert Hoover đã đứng lên ca tụng nhà Đại Phát Minh. Edison đã đáp
từ bằng mấy câu cảm ơn ngắn. Bỗng bà Mina thấy mặt ông tái xanh đi
rồi ông ngã người xuống ghế. Bác sĩ riêng của Tổng Thống điều trị
cho ông nhưng sức mạnh không thể trở lại với ông. Edison yếu dần từ
đó.
Sáng ngày Chủ Nhật, 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần và 3 ngày
sau, đúng ngày sinh nhật thứ 52 của chiếc đèn điện đầu tiên, đám
tang nhà Đại Phát Minh được cử hành rất trọng thể tại thành phố West
Orange, New Jersey. Buổi tối hôm đó, tất cả đèn điện trên toàn thể
lãnh thổ Hoa Kỳ đều tắt trong một phút để tưởng nhớ một Vĩ Nhân, một
“Người Bạn của Nhân Loại” mà 52 năm về trước, đã cho Nhân Loại một
thứ đèn quý giá.
Vào 2 năm trước, 1929, nhân ngày kỷ niệm chiếc đèn điện được 50
tuổi, ông Henry Ford cho thiết lập tại Greenfield Park, thuộc tiểu
bang Michigan, một ngôi làng lịch sử nhắc nhở lại cuộc đời và công
trình của Thomas Edison. Phòng thí nghiệm tại Menlo Park cũng được
dựng lại với tất cả chi tiết cũ cùng các máy móc xưa. Henry Ford
cũng cho tìm kiếm và mua lại được 2 tờ báo The Weekly Herald, tờ báo
mà hơn 70 năm về trước, Thomas Edison đã in trên xe lửa. Không những
chỉ có Henry Ford là người kính trọng Thomas Edison mà hầu hết các
người cộng sự của nhà Đại Phát Minh đều kính mến ông cho tới khi ông
qua đời.
Trong suốt cuộc đời tận tụy, Thomas Edison đã lãnh tất cả 1,097 bằng
phát minh. Thomas Edison là gương sáng của người tự học. Ngoài nền
giáo dục do mẹ ban cho, Edison tìm học tại các thư viện công cộng.
Tính ra ông đã đọc hơn 10,000 cuốn sách nhờ cách “ăn bớt thời giờ
làm việc để ngốn hết 3 cuốn sách mỗi ngày”. Trí nhớ và óc thông minh
siêu việt của ông đã giúp ông thấu hiểu và lưu trữ được tất cả kiến
thức thu thập cho tới khi chết. Ngoài học vấn về Khoa Học và Sử Học,
Thomas Edison còn là một học giả chuyên khảo cứu nền Văn Minh Hy Lạp
và La Mã.
Lòng tận tụy đối với Nhân Loại của Thomas Alva Edison đã được ông
thực hiện đúng như câu nói mà ông thường nhắc nhở : “Tổ Quốc của tôi
là Thế Giới và Tôn Giáo của tôi là làm Việc Thiện”.
Trở về Lịch sử điện
thoại
http://vietsciences.free.fr |