Trong
ngành vi sinh học (microbiology) Yersin là một trong
những tên tuổi lịch sử, vì chính ông là người phát hiện vi
khuẩn bệnh dịch hạch (mang tên Yersinia pestis).
Trên trường quốc tế, tên tuổi và sự nghiệp khoa học của ông
gắn liền với Việt Nam, bởi Việt Nam không chỉ là là quê
hương của ông mà còn là nơi ông có những đóng góp quan trọng
cho kiến thức y học nhiệt đới. Thế nhưng so với sự nghiệp
đồ sộ và công trạng khoa học của ông, sách vở viết về ông
vẫn còn rất khiêm tốn. Điều may mắn là dù Yersin đã qua đời
gần 60 năm về trước, nhưng ông đã để lại gần 1000 lá thư, và
tìm hiểu những lá thư này cho chúng ta thấy đằng sau tên vi
khuẩn là một con người, một người nhân hậu đã để lại một di
sản quí báu chẳng những cho Việt Nam mà còn cho cả thế
giới. Đọc qua các tài liệu này còn cho chúng ta thấy Yersin
không chỉ là nhà khoa học mà còn là một nhà thám hiểm, và
còn có lúc dính dáng vào chính trị địa phương.
Cuộc đời và sự
nghiệp
Alexandre Émile
John Yersin sinh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại làng Lavaux,
Quận Vaud, bên bờ hồ Geneva, Thụy Sĩ. Sau khi theo học
trung học phổ thông ở
Lausanne,
ông sang Paris theo học y khoa tại Đại học
Marburg. Năm 1888, Yersin
hoàn tất luận án tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh lao (La
tuberculous expérimental, type Yersin). Luận án được
đánh giá cao và ông được thưởng huy chương đồng, nhưng ông
nhận một cách miễn cưỡng. Trong thời gian theo học y khoa,
trong một
tai nạn bị chảy máu tay khi ông làm giải phẫu trên xác tử
thi chết vì bệnh dại, ông được tiếp xúc với
Pierre-Paul-Émile Roux
(1853-1933), một nhà khoa học nổi tiếng thời đó đang
theo đuổi một công trình nghiên cứu về phương pháp chữa trị
bệnh dại. Roux cứu sống Yersin bằng cách tiêm thuốc do
chính Roux bào chế. Sau khi tốt nghiệp, Yersin được Roux
thu nhận vào làm việc với vai trò phụ tá nghiên cứu. Năm
1889, Yersin còn được giao thêm nhiệm vụ giảng dạy học môn
vi sinh học tại Viện Pasteur.
Thời gian làm phụ
tá cho Giáo sư Roux, Yersin có cơ hội làm tại Bệnh
viện nhi đồng (Hôpital des Enfants-Malades), nơi mà
bệnh bạch hầu đang là một vấn nạn y tế lớn lúc đó. Yersin
thuyết phục Roux nên nghiên cứu về bệnh này. Roux và Yersin
tiến hành một số thí nghiệm trên chuột, và từ đó phát triển
một phương pháp truy tìm toxin diphthérique (độc tố
bạch hầu) từ nước tiểu của bệnh nhân. Tiến thêm một bước,
Yersin và Roux phát triển vắc-xin thành công dùng cho việc
chữa trị bệnh bạch hầu. Đây là một khám phá đầu tiên và một
cống hiến quan trọng của Yersin cho vi sinh học. Lúc bấy
giờ, bộ môn
sinh học đang ở
trong một “Thời đại vàng son của vi khuẩn học” – “Golden Age
of Bacteriology”, một cuộc cách mạng về tiêm chủng và
vắc-xin.
Với một thành tích đầy hứa
hẹn như thế, ai cũng thấy Yersin có một tương lai sáng sũa
trong khoa học. Ấy thế mà ông lại quyết định bỏ sự nghiệp
nghiên cứu trước sự kinh ngạc của người thầy (Roux) để “Đông
du”. Yersin xin nghỉ việc từ Viện Pasteur và đệ đơn xin làm
y sĩ cho
Công ti vận chuyển đường biển, Messageries Maritimes.
Ngày 5/3/1890, ông được kêu lên phỏng vấn, và đem theo một
lá thư giới thiệu của Louis Pasteur. Với một người giới
thiệu nổi tiếng như thế, Công ti lập tức nhận Yersin vào
làm, dù ông chưa bao giờ có kinh nghiệm đi biển bao giờ.
Tháng 9 năm 1890,
Yersin đáp xe lửa đến Marseille và từ đó xuống tàu Oxus
đi Sài Gòn.
Yersin đến Sài
Gòn ngày 15/10/1890, và ngay sau đó được giao nhiệm vụ mới
trên tàu Volga chuyên chở hàng qua lại giữa
Sài Gòn và Manila (Phi Luật Tân). Nhiệm vụ trên tàu
Volga rất đơn giản và có khi nhàm chán, ông chỉ việc
kiểm tra sức khỏe thủy thủ đoàn và cấp giấy chứng nhận y
tế. Do đó, Yersin có rất nhiều thời gian để học về hàng hải
và hải đồ (cartography) dưới sự chỉ dẫn của các thuyền
trưởng. Chính những kinh nghiệm học hỏi trên tàu Volga
đã giúp ông trong công cuộc thám hiểm trong nội địa Đông
Dương sau này. Trên tàu Volga, Yersin còn tìm cách
học tiếng Việt để ông có thể nói chuyện với thủy thủ đoàn mà
phần lớn là người Việt Nam.
Đầu năm 1891 Công
ti Messageries hủy bỏ các chuyến tàu giữa Sài Gòn và
Manila, Yersin được thuyên chuyển sang làm việc trong các
chuyến tàu giữa Sài Gòn và Hải Phòng. Tuyến đường mới này
giúp ông khám phá thêm về Việt Nam. Ông còn bỏ tiền ra mua
một chiếc ca-nô để đi thám hiểm các vùng sâu xa khác trong
Việt Nam. Trong các chuyến thám hiểm ở những vùng hẻo lánh,
ông trị bệnh cho dân làng hoàn toàn miễn phí. Lòng nhân đạo
của ông được thể hiện qua một lá thư ông viết về nhà ở Thụy
Sĩ: “Tôi không thể nào đòi tiền từ một bệnh nhân.”
Mùa Thu năm 1891, hợp đồng của Yersin với công ti
Messageries chấm dứt, và ông bắt đầu dành hết thì giờ để
theo đuổi “nghề” thám hiểm.
Mùa Đông năm 1892
Yersin trở về Âu châu thăm gia đình ở Thụy Sĩ và gặp gỡ các
đồng nghiệp cũ ở Paris, nơi mà ông mô tả “thời tiết … quả
là khắc nghiệt ghê gớm, buồn chán, và lạnh quá.” Khi
hay tin ông về Paris, Émile Roux hoan hỉ chờ đón Yersin tiếp
tục nghiên cứu với ông, nhưng Yersin đã quyết định bỏ sự
nghiệp nghiên cứu khoa học ở Pháp. Quyết định của Yersin
không phải vì thời tiết giá lạnh, mà vì “Đối với một
người đã từng nếm mùi tự do như tôi, đời sống trong phòng
thí nghiệm ở Paris quả là một nhà tù. Nghiên cứu khoa học
rất ư là thú vị, nhưng ông Pasteur từng nói rất chính xác
rằng muốn làm người thiên tài trong phòng thí nghiệm người
đó phải có tiền nhiều để không phải sống trong cảnh thiếu
thốn.” Tuy nhiên, với sự tiến cử của
Roux,
Hiệp hội Địa lí Pháp (French Geographic Society) vinh danh
Yersin bằng một bằng tưởng thưởng về chuyến thám hiểm ở
Phnom Penh. Trong chuyến quay lại Paris lần này, Yersin cho
biết ông được dùng một bữa cơm tối với
Louis Pasteur,
và được Pasteur “tỏ ý vui mừng về những chuyến thám hiểm
của tôi.” Đối với Yersin được dùng bữa cơm và được một
nhà khoa học tài ba và nổi tiếng khó tính như Pasteur khen
ngợi là một vinh dự lớn.
Tháng 1
năm 1893, Yersin quay trở lại Sài Gòn. Lần này, Yersin được
giao cho một chức vụ đúng với sở thích và ngành nghề mình:
làm cao ủy y tế thuộc địa. Một trong những qui định của
công việc là phải mặc quân phục và hành xử nghiêm chỉnh
trong các buổi lễ. Nhưng Yersin không thể nào tuân hành
theo qui định này, vì ông không thích mặc đồng phục. “Điều
làm tôi khó chịu là những người thuộc cấp phải chào tôi theo
cung cách quân sự, và tôi cũng phải chào các quan cấp
cao hơn tôi theo cung cách như thế. Tôi không thể nào đi ra
ngoài mà không phải dơ tay chào. Lúc nào tôi cũng phải bận
tâm làm sao đừng đi ngang qua mấy ông đại tá, đại úy ,,,”
Ông muốn thoát khỏi Sài Gòn. Để thực hiện ý định này,
ông tổ chức những đợt thám hiểm các vùng rừng núi thuộc miền
Trung Việt Nam. Những cuộc thám hiểm của ông thường gặp
phải khó khăn, vì mưa gió, sình bùn, và lụt lội. Trong một
chuyến thám hiểm ông phải đổi cái máy hát mua ở Thụy Sĩ để
có một con voi dùng làm chuyên chở hàng hóa và dụng cụ.
Trong
thập niên 1890s, nạn dịch cúm hoành hành ở miền Nam Trung
Quốc và bắt đầu lan truyền xuống Đông Dương. Năm 1894 cơn
dịch lớn xảy ra ở Hồng Kông, với khoảng 150.000 người mắc
bệnh, và tỉ lệ tử vong lên đến 95%. Yersin được Nhà cầm
quyền thuộc địa gửi đến Hồng Kông để nghiên cứu.
![](images/yersinnhala.jpg)
Ngày 15/6/1894, Yersin đến Hồng Kông, và chứng kiến một cảnh
tượng tang tóc. Đường xá chật chội, đông người thuở nào nay
trống trơn; đám tang khắp nơi; những cuộc an táng vộ vã ...
Ba ngày trước đó, Shibasaburo Kitasato, một nhà khoa học
danh tiếng người Nhật, cũng đến Hồng Kông để nghiên cứu về
bệnh dịch. Với sự yểm trợ tài lực dồi dào của chính quyền
thuộc địa Anh, Kitasato thành lập phòng thí nghiệm trong
bệnh viện Kennedy Town. Trong khi đó, Yersin chỉ có một cái
kính hiển vi. Người Anh cũng không cho ông khám nghiệm tử
thi.
Sau đó,
Yersin được giới thiệu đến gặp Kitasato, và được Kitasato
cho làm “quan sát viên”, tức chỉ đứng … nhìn nhóm của
Kitasato giảo nghiệm tử thi, chứ không được phép trực tiếp
nhúng tay vào. Yersin hết sức ngạc nhiên về phương pháp làm
việc của Katasato: họ khám nghiệm máu rất kĩ càng và cẩn
thận giảo nghiệm các cơ phận của tử thi, nhưng họ lại bỏ qua
chỗ sưng bạch hạch (bubo)!
Sau 5
ngày làm quan sát viên, Yersin rất bực bội vì cảm thấy mình
chẳng làm được gì. Ông quyết định làm một việc mà y học
ngày nay xem là … bất chính. Ông nhờ người thông ngôn gốc Ý
vốn có cảm tình với Pháp hối lộ những thủy thủ người Anh để
mua cho ông vài xác chết (vì lúc đó các thủy thủ này có
nhiệm vụ vận chuyển xác chết). Ngày 20/6/1894 Yersin có
được 1 xác chết và bắt tay vào làm việc ngay. Ông cắt phần
sưng bạch hạch và lập tức dùng kính hiển vi khám nghiệm.
Ông phát hiện “une véritable purée de microbe” – tức
một vết mờ nhạt có hình cái que với hai đầu tròn. Khi thử
nghiệm với Gram stain, kết quả âm tính, nhưng với
baccillus stain thì dương tính. Sau khi làm thí nghiệm
trên 5 con chuột khác, kết quả tương tự. Hai ngày sau,
Yersin báo cho chính quyền thuộc địa Anh biết về phát hiện
của mình. Người Anh lúc đó mới cho phép ông chính thức khám
nghiệm tử thi trực tiếp. Lúc này, nhóm của Kitasato cũng
bắt đầu quay sang khám nghiệm phần sưng bạch hạch và tuyên
bố rằng họ đã phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh bạch hầu.
Theo sau
là một cuộc tranh cãi ồn ào ai là người đầu tiên đã khám phá
ra plague bacillus. Có người cho rằng Yersin và
Katasato một cách độc lập cùng khám phá ra vi khuẩn. Cho
đến nay vẫn có một số sách giáo khoa đề là
Kitasato-Yersin bacillus. Nhưng qua các bài báo của
Katasato và bình luận của các cộng sự viên với Katasato, kết
quả Gram stain mà Katasato tuyên bố là plague
bacillus thực là streptococcus. Song, trong các
thư từ để lại Yersin có vẻ chẳng quan tâm gì đến cuộc tranh
luận “ai trước”, mà vẫn tiếp tục nghiên cứu [1].
Năm sau
đó (1895) Yersin trỏ lại về Paris. Dựa vào kết quả nghiên
cứu ở Hồng Kông, ông cùng với cộng sự viên phát triển thành
công vắc-xin chống bệnh dịch. Năm 1896, vắc-xin này được
dùng để chữa trị thành công một học sinh nhà dòng người
Trung Quốc. Sau khi quay về Việt Nam, ông thành lập viện
nghiên cứu lấy tên người thầy cũ, gọi tên là Pasteur
Institute – Viện Pasteur. Viện Pasteur gồm có một bệnh
viện, một trung tâm sản xuất vắc-xin, phòng thí nghiệm, và
đài thiên văn.
Vào khoảng đầu thế kỉ 20, Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp muốn
thiết lập một trường đại học y dược tại Đông Dương. Sau khi
bàn thảo, họ chọn Hà Nội làm địa điểm cho trường, vì
“Bắc Kỳ không chỉ cho
phép nghiên cứu các bệnh của vùng nhiệt đới Viễn Đông mà còn
cả các bệnh riêng cho mùa lạnh. Hơn nữa, Bắc Kỳ tiếp giáp
với Trung Hoa là nơi mà ảnh hưởng của nền Y học chúng ta
đang ngày càng tăng cường. Đó là sự xâm nhập hữu hiệu nhất
và cũng vinh dự nhất” (tích theo Kỷ yếu trường
Đại học Y Dược khoa Đông Dương, Hà Nội.- Tập 9.- 1944, tr
1). Trong các ứng viên hiệu trưởng cho trường do Hiệu
trưởng Đại học Y Paris giới thiệu, chẳng ai được Nhà cầm
quyền thuộc địa chấp nhận. Thay vào đó, họ bổ nhiệm
Alexandre Yersin làm hiệu trưởng, vì ông là người có kinh
nghiệm trong các bệnh nhiệt đới mà Pháp muốn nghiên cứu ở
Đông Dương. Ông giữ chức hiệu trưởng trường y Hà Nội từ
ngày 27/2/1902 đến ngày 9/7/1904, ngày ông bỏ từ chức vì bất
đồng ý kiến với ban điều hành trường về chương trình đào
tạo.
Nhà thám hiểm
Trong thời gian
làm công chức và theo tàu đi lại giữa Sài Gòn và Hải Phòng,
Yersin thực hiện nhiều cuộc thám hiểm. Năm 1891 trong một
lần thám hiểm vùng Tây Nguyên Việt Nam, ông khám phá ra
nhiều điều bí ẩn tại đây và phát hiện một vùng đất ôn đới mà
sau này chúng ta biết là Đà Lạt.
Trong một chuyến
thám hiểm khác, Yersin bị liên hệ vào một vụ nổi loạn của
dân chúng địa phương chống lại nhà cầm quyền thuộc địa.
Ngày 18 tháng 6 năm 1893, 56 tù nhân Việt Nam vượt ngục từ
nhà tù Phan Rí và than gia với các nhóm phản kháng khác
trong một cuộc nổi dậy nhằm lật đổ chính quyền tỉnh. Người
Pháp khống chế thành công cuộc nổi dậy, nhưng đạo quân nổi
loạn thoát khỏi tỉnh và tái tổ chức. Các nhóm này băng qua
các rặng núi để đến Phan Rang tiến hành một cuộc đảo chính
khác. Vì không biết được những sự kiện này, Yersin đến làng
Bo Kraan một tuần sau đó. Dân làng báo cho ông biết
rằng có khoảng 30 người nổi loạn đã vượt qua đây trong đêm
qua. Với thói quen liều lĩnh, Yersin quyết định ra tay chận
đứng cuộc nổi dậy! Ngày hôm sau, ông rời Bo Kraan cùng với
những người Việt tùy tùng trung thành với ông, và băng qua
núi. Sau 12 giờ đi trong mưa, đoàn ông đối đầu với nhóm nổi
loạn tại làng Pho Tan Ngam. Yersin muốn bắt người
đứng đầu nhóm nổi loạn làm tù binh.
Yersin bao dây và
dồn người đứng đầu nhóm nổi loạn vào một căn chòi, nhưng
trong giây phút cuối, những người Việt tùy tùng của ông chạy
trốn, và chỉ một mình ông phải đối diện với kẻ thù! Những
chi tiết trong câu chuyện chỉ là những chữ do chính Yersin
ghi chép, do đó rất khó mà biết được đây là một câu chuyện
nói khoác hay là một câu chuyện có thật. Theo Yersin, ông
đe doạ kẻ thù ông với cây súng lục nhưng họ tấn công ông
trước khi ông có thì giờ nổ súng. Sau một hồi quần nhau,
Yersin bị một thương nhẹ ở tay mặt và bị ăn một báng súng.
May mắn thay, những người nổi loạn không giết ông, họ bỏ mặt
ông đó rồi rời hiện trường, có lẽ họ nghĩ ông là một nhân
vật quân sự Pháp và sợ bị trả thù. Gần Nha Trang, mười ngày
sau đó, dân quân người Việt bắt trọn nhóm nổi loạn . Yersin
chụp hình những người đứng đầu cuộc nổi loạn trước khi họ bì
xử tử. Bằng một mô tả sinh động, Yersin cho biết người đao
phủ phải chém đến 4 lần mới chặt được đầu của Thouk, một
người đứng đầu trong cuộc nổi loạn [2].
Sau này, Yersin
được thăng chức và trở thành một trong những quan chức cao
cấp nhất trong chính quyền thuộc địa ở Đông Dương. Ông thực
hiện nhiều cuộc khảo cứu, kể cả các vùng xa xôi như Mumbai
bên Ấn Độ. Ông điều hành một mạng lưới phòng thí nghiệm và
trung tâm tiêm chủng ngừa khắp Việt Nam. Ông chủ trương và
thực hiện các chiến dịch chống sốt rét bằng cách cung cấp
quinine cho người dân bản xứ. Ông tham gia làm việc cho
Trung tâm Khí tượng Đông Dương, nghiên cứu làm bản đồ, và
hải đồ cho ngành hàng hải Việt Nam. Ông còn giới thiệu
phương pháp trồng trọt cây cao su tại Việt Nam, nhưng đem
lại những món lời khổng lồ cho các công ti cao su Pháp như
Michelin và làm khổ những công nhân Việt Nam trong các đồn
điền cao su như thế. Nhưng đây là một câu chuyện khác.
Năm
1940, Yersin trong tình
trạng sức khỏe kém quay lại Pháp lần cuối. Nhưng chỉ lưu
lại Pháp một năm; năm 1941 ông quay về Nha Trang, mảnh đất
ông yêu quí.
Ngày 1 tháng 3 năm
1943, Yersin đau bệnh và qua đời một cách cô đơn tại nhà
riêng ở Suối Giao (Nha Trang). Ông thọ 79 tuổi. Trong di
chúc để lại, ông muốn được chôn cất tại Nha Trang để gần
những người ông yêu mến. Cho đến nay, cứ đến ngày 1 tháng 3
hàng năm, dân chúng
trong vùng vẫn viếng mộ ông để tỏ lòng mến mộ và kính phục
cho một tấm lòng khoa học và nhân đạo.
Trong
danh sách những người Pháp có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt
Nam, có lẽ Yersin là một người mà công trạng và di sản của
ông chẳng những không ai chất vấn mà còn được mến mộ. Tại
một số thành phố lớn như Đà Lạt (ông là người khám phá ra
thành phố này), Hà Nội, hay Thành phố Hồ Chí Minh đều có con
đường mang tên ông. Di sản khoa học của ông vẫn còn tồn tại
với những trường mang tên ông, và nhất là Viện Pasteur.
Yersin quả là một nhà khoa học đã đem hai chữ Việt Nam và
Nha Trang vào lịch sử vi sinh học trên thế giới.
Viện bảo tàng Yersin
8 - 10 Tran Phu (nằm
trong viện Pasteur)
![](images/yersin-mobia.jpg)
Chú thích:
[1] Chi tiết về
việc làm của Yersin tại Hồng Kông được trích dẫn từ bài viết
“Alexandre Yersin and the plague bacillus” của Tom Solomon,
đăng trên [Tập san Journal of Tropical Medicine and Hygiene
năm 1995, số 98, trang 209-12.
[2] Chi tiết về
vụ Yersin dính dáng vào cuộc nổi loạn được trích trong bài
luận văn “Alexandre Yersin and his adventures in Vietnam”
(Alexandre Yersin và cuộc mạo hiểm ở Việt Nam) của Giáo sư
William Burns, đăng trên Tập san y học của Welcome Trust,
Anh Quốc.
Cống hiến của
Yersin cho khoa học có thể tóm lược trong các công trình
khảo cứu sau đây:
Bệnh bạch hầu:
Contribution à l'étude de la diphtérie. Viết chung
với Emile Roux. Annales de l'Institut Pasteur, 1888, 2
(12): 629-661.
Contribution à l’étude de la diphtérie. Annales de
l’Institut Pasteur, 1888, 2: 629-661;
Contribution à l'étude de la diphtérie. Deuxième mémoire.
Viết chung với Emile Roux, Annales de l'Institut
Pasteur, 1889, 3 (6): 273-288.
Contribution à l'étude de la diphtérie. Troisième
mémoire. Viết chung với Emile Roux. Annales de
l'Institut Pasteur, 1890, 4 (7): 385-426.
Về bệnh lao
De l'action de quelques antiseptiques et de la chaleur
sur le bacille de la tuberculose. Annales de l'Institut
Pasteur, 1888, 2: 60-65.
Etude sur le développement du tubercule expérimental.
Thèse de la faculté de Médecine de Paris 26 mai 1888.
Annales de l'Institut Pasteur, 1888, 2: 245-266.
Etude sur le développement du tubercule expérimentale.
Sceaux, Charaire et fils, 1888, 31 pages.
Analyse de l'article de Stschastny : sur les relations
entre les bacilles de la tuberculose et les cellules.
Annales de l'Institut Pasteur, 1889, 3 (2): 93-94.
Analyse de l'article de H. Kuhne : sur la coloration des
bacilles dans les nodules morveux. Annales de l'Institut
Pasteur, 1889, 3 (1): 44-45.
Về bệnh dịch
Sur la peste de Hong Kong. Communication à L'Académie
des Sciences le 30-7-1894.
Comptes rendus de l'Académie des Sciences, 1894, 119: 356.
La peste bubonique à Hong Kong. Annales de
l'Institut Pasteur, 1894, 8: 662-667.
La peste bubonique à Hong Kong. Archives de Médecine
Navale, 1894, 62: 256-261.
La peste bubonique. Deuxième note. With A. Calmette
and A. Borrel. Annales de l'Institut Pasteur, 1895, 9:
589-592.
La peste bubonique. Deuxième note. Archives de
Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.
Sur la peste (sérothérapie). Annales de l'Institut
Pasteur, 1897, 11: 81-93.
Rapport sur la peste aux Indes. Archives de Médecine
Navale, 1897, 68: 366-372.
Historique du premier cas de peste traité et guéri par
l'emploi du sérum antipesteux. Bulletin de l'Académie de
Médecine, 1897, 36: 195-199.
Rapport sur la peste bubonique de Nha Trang (Annam).
Annales de l'Institut Pasteur, 1899, 13: 251-261.
L'épidémie de peste de Nha Trang de juin à octobre 1898.
Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2:
378-390.
Vaccination par atténuation du coccobacille de la peste.
Viết chung với C. Carré. 13e Congrés International de
Médecine, Paris, 1900.
Les épidémies de peste en Extrême-Orient. In
collaboration with Paul-Louis Simond (1858-1947). 13e
Congrés International de Médecine, Paris, 1900.
Về bệnh truyền nhiễm trong gia cầm
Notes succintes sur une épizootie de buffles, sur la
typhomalarienne et la bilieuse hématurique. Archives de
Médecine Navale, 1895, 64: 49-52.
Note sur la fièvre bilieuse hématurique. Comptes
Rendus de la Société de Biologie, 1895, 47: 447-449.
Expériences sur la peste bovine. Bulletin Economique
de l'Indochine, 1898, 2: 245.
Traitement de la peste bovine. Viết chung với C.
Carré and Fraimbault.
Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1899, 2:
175-182.
Note sur les épizooties des bovins en Indochine.
Annales d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1903, 6:
467-469.
Etudes sur quelques épizooties de l'Indochine.
Annales de l'Institut Pasteur, 1904, 18 (7): 417-449.
Về thám hiểm
Notes recueillies pendant trois voyages chez les Moïs de
l'Indochine.
Archives de Médecine Navale, 1894, 61: 310-312.
Explorations et souvenirs du Docteur Yersin (souvenirs
recueillis par l'Institut Pasteur de Dalat en mai 1956.
[Dalat : Institut Pasteur, 1956].
Récit des premières explorations du Docteur Yersin dans
la chaîne annamitique, publié dans la revue Indochine de
1942 à 1943. Comprend :
Premier contact avec les pays Moïs de l'Annam.
Voyage de Nha Trang à Stung-Treng par les pays Moïs
(première, deuxième et dernière parties).
Rencontre avec des pirates sur le plateau Moï.
Première reconnaissance du plateau du Lang-Bian.
Un mois chez M'Siao (juillet-août 1893).
De Nha Trang à Tourane par les plateaux Moïs.
De Nha Trang à Tourane par les pays Moïs.
Về Viện Pasteur tại Nha Trang
L'Institut Pasteur de Nha Trang, Annam. Annales
d'Hygiène et de Médecine Coloniales, 1900, 3: 506-520.
L'Institut Pasteur de Nha Trang, Annam. Bulletin
Economique de l'Indochine, 1900: 253-265.
Về thủy thổ
La station d'altitude du Hon Ba (Annam), les essais
agricoles qui y sont poursuivis. Revue de Botanique
Appliquée et d'Agriculture Coloniale, 1925, 5: 574-582.
Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en
Indochine. Première note.
Revue de botanique appliquée et d'agriculture coloniale,
1927, 7: 250-254 and 331-338.
Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations
d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Deuxième
note. In collaboration with A. Lambert. Revue de botanique
appliquée et d'agriculture coloniale, 1927, 7: 809-816.
Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations
d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Troisième
note. In collaboration with A. Lambert. Revue de
botanique appliquée et d'agriculture coloniale,1928, 8:
119-122.
Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en
Indochine. Archives de l'Institut Pasteur d'Indochine,
1928, 8: 5-22.
Note sur divers essais agricoles entrepris aux stations
d'altitude des Instituts Pasteur d'Indochine. Quatrième
note. In collaboration with A. Lambert. Revue de
botanique appliquée et d'agriculture coloniale, 1931, 11:
301-304.
Longue survie d'hévéas brisés par un typhon. Comptes
rendus de l'Académie des Sciences, 1932, 194: 1620.
Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en
Indochine. Cinquième note. In collaboration with A.
Lambert. Revue de Botanique Appliquée et d'Agriculture
coloniale, 1935, 15: 225-234.
Note sur les essais d'acclimatation des quinquinas
entrepris en Indochine par l'Institut pasteur. Bulletin
de la Société Médico-chirurgicale de l'Indochine, 1936:
594-595.
Essais d'acclimatation de l'arbre à quinquina en
Indochine. Sixième note. In collaboration with A.
Lambert. Revue de Botanique Appliquée et d'Agriculture
Coloniale, 1939, 19: 237-242.
Về các lĩnh vực khoa học khác
Tumeur mélanique de la plante du pied. Annales de
l'Institut Pasteur, 1887, 1 (3): 142.
Analyses de trois articles : P. Liborius : « Recherches sur
l'action désinfectante de la chaux », O. Bujwid : « une
réaction chimique pour les bacilles du choléra », Fischer :
« Recherches bactériologiques pendant un voyage aux Indes.
Annales de l'Institut Pasteur, 1887, 1 (6): 318-319.
Note sur un cas de fièvre récurrente en Indochine.
Comptes rendus de la Société de Biologie, 1906, 60:
1037-1038.
Une maladie rappelant le typhus exanthématique observée
en Indochine. In collaboration with J. J. Vassal.
Bulletin de la Société de Pathologie Exotique, 1908, 1:
156-164.
La Simaroubine dans la dysenterie amibienne. Written
with L. Braudat and Lalong-Bonnaire. Comptes rendus des
travaux du troisième Congrés Biennal de la Far Eastern
Association of Tropical Medicine, Saigon, 1913: 101-105.
Quelques observations d'électricité atmosphérique en
Indochine. Comptes rendus de l'Académie des Sciences,
1930, 191: 366-368.
Nguồn :
http://nguyenvantuan.chuyenluan.net |