![](../../../nobel/litterature/images/kawabata.jpg) |
Yasunari Kawabata là nhà văn người
Nhật Bản đầu tiên đoạt
Giải Thưởng Nobel về Văn Chương
vào năm 1968, đúng 100 năm sau khi nền
Văn Học Nhật Bản mở cửa
với Phong Trào Minh Trị Phục Hưng. Các
tác phẩm của Yasunari Kawabata nói về
những người đương thời
nhưng Ủy Ban Phát Giải Nobel vinh danh nhà
văn Kawabata bởi vì các tác phẩm của
ông đã bộc lộ được các
truyền thống Nhật Bản. |
|
|
|
|
Các tác phẩm của Kawabata chứa đầy
các tình cảm cô đơn, các nỗi ám
ảnh vì cõi chết, thứ tư tưởng
bi quan này có lẽ bắt nguồn từ các
kinh nghiệm bi thương của tác
giả lúc còn trẻ. Người cha
của Kawabata qua đời khi ông mới hai
tuổi và năm sau, bà mẹ thân yêu cũng
không còn. Kawabata được giao cho ông bà
nội nuôi dưỡng nhưng bà nội cũng
khuất bóng vào năm 1906, lúc Kawabata
mới 7 tuổi. Từ nay hai ông cháu
sống cô đơn trên thế gian,
giữa những người họ hàng ra
đi dần dần.
Yasunari Kawabata chào đời vào ngày 11 tháng
6 năm 1899, trong một ngôi làng gần thành
phố Osaka, tốt nghiệp trường
Đại Học Hoàng Gia Tokyo vào năm
1924. Tác phẩm đầu tay của Kawabata
là cuốn “Nhật Ký của người
16 tuổi” (Juurokusai no Nikki), có lẽ
viết vào năm 1914 và được
xuất bản 11 năm sau đó. Cuốn
nhật ký này chịu ảnh hưởng
của nền văn chương cổ, bên
trong hàm chứa hy vọng của một
đứa trẻ trông mong ông nội
khỏi bệnh.
Sau cuốn nhật ký là cuốn truyện có
tên là “Đại Hội Yasukuni” (Shookonsai
Ikkei, 1921), mô tả một nữ diễn viên
cưỡi ngựa của một rạp
xiếc với các người bạn
của cô ta, trong đó có các đối
thoại ngắn, mang nhiều ý nghĩa
ẩn dụ, khiến cho người đọc
khó phân biệt giữa giấc mơ và
hiện thực. Tác phẩm này dùng một
thể văn mới của trường phái
Tân Duy Cảm (new sensationalist) với tính khách
quan của tác giả, không can dự vào nhân
vật, và tác phẩm đã khiến cho các
nhà văn khác phải chú ý trong đó có ông
Kikuchi Kan. Kawabata cho ông Kikuchi biết ý
muốn kết hôn với một người
con gái 15 tuổi. Thay vì cản trở
cuộc hôn nhân quá sớm này, ông Kikuchi
lại hứa cho đôi uyên ương mượn
căn nhà với món tiền tặng hàng tháng
là 50 yen. Ông Kikuchi Kan còn giới thiệu
Kawabata với nhà văn Yokomitsu Riichi và tình
bạn giữa hai người này được
duy trì trong nhiều thập niên.
Cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu
tiên của Yasunari Kawabata là tác phẩm “Vũ
Nữ Izu” (Izu no Odoriko = The Izu Dancer, 1926)
đã khiến cho nhiều độc
giả phải chú ý. Sau khi bị người
tình nhỏ tuổi bỏ rơi, Kawabata
đã tới hòn đảo Izu vào mùa thu năm
1918, tham gia vào đoàn hát lưu động
bởi vì nhà văn có cảm tình với
một vũ nữ trẻ trong đoàn và
những ca sĩ dạo này đã bị dân
chúng địa phương coi kinh, chẳng
khác nào các kẻ ăn xin. Tại nhiều
làng mạc, người dân đã treo các
bảng cảnh cáo “các kẻ ăn xin và
các ca sĩ dạo hãy tránh khỏi nơi
đây”.
“Vũ Nữ Izu” là câu chuyện của
một sinh viên cô đơn, đi tìm an
ủi và tình bạn trong một đoàn hát
và tác phẩm chứa nhiều phân đoạn
không có khúc đầu, khúc giữa hay khúc
đuôi. Các chuyển tiếp đột
ngột này mô tả các hình ảnh tương
phản giữa cái đẹp và cái
xấu, và tác giả muốn để cho
độc giả nhận ra phẩm chất
của từng phân đoạn. Văn phong
của Yasunari Kawabata trong tác phẩm này tương
tự như của các nhà văn trong nhóm
Ấn Tượng người Pháp sau
Thế Chiến Thứ Nhất.
Sau cuộc động đất tai hại
vào năm 1923 xẩy ra tại thành phố
Tokyo, Yasunari Kawabata đã đi lang thang trong
nhiều khu phố của nơi này, vào ban
ngày cũng như ban đêm, tay cầm
cuốn sổ ghi, quan sát những cảnh tàn
phá vì thiên tai, các cảnh đau khổ
của các nạn nhân. Những xúc động
được nhà văn mô tả trong
cuốn “Băng Đảng Asakusa” (Asakusa
Kurenai Dan = The Asakusa Crimson Gang, 1929 – 30). Tác
phẩm này được đăng trên
Nhật Báo Asahi của Tokyo, mang lại danh
tiếng cho nhà văn bởi vì qua tác
phẩm, tác giả không muốn mô tả
khu phố Asakusa theo chiều hướng xã
hội, mà muốn chia xẻ với độc
giả các cảm xúc theo cách của các nhà
văn Tân Duy Cảm (New Sensationalists).
Tác phẩm “Cái Kim, cái Ly và con Nhái” (Hari
to Garasu to Kiri) của Yasunari Kawabata xuất
bản năm 1930 bị coi là chịu
ảnh hưởng của James Joyce khi tác
phẩm Ulysses được Ito Sei và các người
cộng tác dịch ra tiếng Nhật vào năm
1930. Tác phẩm này của Kawabata đã mô
tả các nội tâm của nhân vật
Asako, người vợ đã làm nhiều
điều sai trái vì ghen tuông khi tìm
thấy một tấm hình đàn bà khác
trong tủ hồ sơ của chồng, và tác
giả đã mô tả sự liên hệ yêu-ghét
trong tâm hồn của Asako theo cách phân tích
của Freud.
2/ Giai đoạn hai với Tác
phẩm “Xứ Tuyết”.
|
Trong nhiều năm, Yasunari Kawabata đã
từng theo đuổi một cuộc đời
hoàn toàn riêng tư nhưng từ năm
1930, ông đã tham gia tích cực vào thế
giới văn chương. Kawabata ở trong
nhóm chủ trương của nhiều
tạp chí, kể cả tạp chí Thế
Giới Văn Học (Bungakkai) rồi
tới năm 1934, được chỉ
định vào Nhóm Hội Thảo Văn
Học (Bungei Kondan Kai). Vào thời kỳ này,
Kawabata và Yokomitsu là hai nhà văn trẻ,
tuổi trên 30, và Nhóm Hội Thảo kể
trên có ý định làm thăng tiến
một phong trào “Phục Hưng” trong
giới nhà văn Nhật Bản.
Năm 1937, Kawabata với tác phẩm
“Xứ Tuyết” (Yukiguni = Snow Country) đã
cùng nhà văn Ozaki Shiroo, tác giả của
cuốn truyện “Trò Đời” (Theater
of Human Life) chia xẻ phần thưởng
thứ ba của Nhóm Hội Thảo Văn
Học. Mặc dù ý định kiểm soát
giới cầm bút của chính quyền
Nhật Bản thời đó, Kawabata vẫn
nhận phần thưởng, dùng số
tiền thưởng mua một căn nhà
tại Karuizawa và đồng thời vẫn
phổ biến các bài báo đề cập
tới nhu cầu tự do ngôn luận,
tự do phát biểu, rồi vào năm 1935,
Kawabata phản đối Nhóm Hội
Thảo Văn Học đã không trao
giải thưởng cho nhà văn Shimaki
Kensaku vì tác phẩm bị nghi ngờ có
khuynh hướng Mác Xít.
Các bài viết của Yasunari Kawabata thường
không mang tính quốc gia, không liên quan
tới giới quân sự, có lẽ do nhà văn
không quan tâm đến các quan điểm chính
trị hay xã hội. Các tác phẩm của
Kawabata thường hàm chứa tính gợi
dục (sensual), điều này hoàn toàn đúng
với hai tác phẩm đặc sắc
nhất của tác giả, đó là hai
cuốn tiểu thuyết “Xứ
Tuyết” và “Ngàn Cánh Hạc” (A Thousand
Cranes).
Vẻ đẹp hồi tưởng
(evocative beauty) với câu mở đầu
“Con tầu ra khỏi đường
hầm dài, đi vào xứ tuyết”, tác
phẩm “Xứ Tuyết” đã khiến
cho Yasunari Kawabata đoạt Giải Thưởng
Nobel về Văn Chương của năm
1968 bởi vì tác phẩm đã nói về
một câu chuyện thần tiên hư vô
(nihilistic fairy tale), tại một nơi
ở bên ngoài các giới hạn của
đời sống thường ngày. Nhà văn
Kawabata đã bỏ ra một thời gian dài
để xây dựng tác phẩm, từ năm
1935 tới năm 1937 và cả chục năm
sau đó. Nhân vật chính trong chuyện là
Shimamura đã có gia đình và cuộc
sống tại thành thị nhưng chàng
thanh niên này rất quan tâm tới bộ môn
vũ Ballet của phương Tây và bởi
vì sống tại Nhật Bản, chàng
chỉ được đọc những
điều mô tả nghệ thuật
của phương Tây mà không nhìn thấy
chúng tận mắt. Shimamura thỉnh
thoảng đã đi lên miền bắc xa xôi,
tại nơi này thời tiết rất
xấu nhưng là nơi còn duy trì các
tập quán và phong tục cổ, và chàng
đã gặp Komako, một nữ nghệ nhân
geisha trẻ, rất đẹp. Nhưng
cuộc đời của Komako thì phức
tạp và khó hiểu hơn là thứ
Shimamura hằng tin tưởng. Qua các ẩn
dụ trong tác phẩm, Yasunari Kawabata đã làm
cho độc giả cảm nhận các
sự thật sâu xa trong hoàn cảnh của
con người, một thứ “cố
gắng vô ích” (wasted effort) và khi Shimamura
thấu hiểu được những
điều ẩn dấu, chàng vĩnh
viễn rời bỏ Xứ Tuyết. Ngôn
ngữ đàm thoại của tác phẩm này
vẫn mang tính gợi dục và bên trong tác
phẩm là một thứ triết lý
thẩm mỹ phức tạp (a complex
aesthetic philosophy) với các hình ảnh mang
nhiều màu sắc, nhiều tính nhạy bén
về tâm lý và các hình ảnh mô tả
Komako đã khiến cho nhà văn Kawabata
nổi danh là bậc thầy về tâm lý
phụ nữ. “Xứ Tuyết” là
cuốn tiểu thuyết đề cập
tới sự duyên dáng, hấp dẫn không
những của người nghệ nữ
geisha mà của giới phụ nữ
Nhật Bản, và mặc dù những nét
vẻ mới lạ của văn chương,
tác phẩm này vẫn gần với các tác
phẩm văn học của Thời Kỳ
Heian.
Sau cuộc chiến tranh xung đột
với Trung Hoa xẩy ra vào năm 1937, chính
phủ Nhật Bản đã kiểm
duyệt báo chí và làm áp lực lên các nhà
văn. Trước hoàn cảnh này, Kawabata
vẫn giữ sự bình thản, tìm cách du
lịch nhiều nơi trong xứ và đọc
các tác phẩm cổ điển. Nhà văn
này đã viết một số tập
truyện trẻ em, gửi đăng trên vài
tạp chí phụ nữ. Vào mùa xuân năm
1941, Yasunari Kawabata qua Mãn Châu theo lời
mời của một nhật báo địa
phương rồi trở về Nhật
Bản qua ngả thành phố Bắc Kinh. Ông
cũng trở lại Mãn Châu vào mùa thu, thăm
đạo quân Quan Đông cùng với
một số nhà văn khác, lưu ngụ
tại Thẩm Dương một tháng
rồi trở về Nhật Bản trước
khi cuộc Chiến Tranh Thái Bình Dương
bùng nổ. Trong thời kỳ Thế
Chiến Thứ Hai, Kawabata viết ra các
hồi tưởng của thời thơ
ấu và tác phẩm chưa hoàn thành
với tên là “Nơi Sinh” (Koen, 1943 – 45).
Một tiểu thuyết dở dang khác là
Tookaidoo (Đông Hải Đạo) qua đó
tác giả nhấn mạnh đến sự
quan trọng của giá trị thẩm
mỹ theo truyền thống đối
với mọi bộ môn nghệ thuật và
tác giả đã tìm thấy các điều
tương đồng giữa thời
kỳ chiến tranh hiện tại và
thời đại Muromachi.
Vào năm 1940, Yasunari Kawabata tham gia vào
Hội Các Nhà Văn Nhật (Nippon Bungakusha
Kai) cùng với các nhà văn danh tiếng như
Itoo Sei, Kishida Kunio, Kobayashi Hideo, Hino Ashihei,
Shimaki Kensaku và Yokomitsu Riichi. Tới tháng 5 năm
1942, Kawabata là nhân viên của Hội Văn
Chương Ái Quốc Nhật Bản (Nippon
Bungaku Hookoku Kai = Japanese Literature Patriotic
Association) rồi trong các năm sau, nhà văn
này đã chứng kiến sự qua đời
của nhiều người bạn thân :
Kataoka Teppei vào năm 1944, Takeda Rintaroo vào năm
1946 và Yokomitsu Riichi vào năm 1947. Các bài
điếu văn mà Kawabata viết ra, dành
cho các nhà văn kể trên đã khiến
cho ông trở nên một bậc thầy
về loại văn này. Trước
cảnh chiến tranh tàn phá, cảnh người
dân điêu linh, Kawabata tin rằng mình
phải duy trì các vẻ đẹp Nhật
Bản, giống như ẩn dụ trong
lời thơ của thi sĩ danh tiếng Tu
Fu : “Quốc Gia đã bị thất
bại, nhưng Núi Sông vẫn còn”.
Năm 1948, Yasunari Kawabata trở nên Chủ
Tịch thứ tư của Tổ Chức Văn
Bút Nhật Bản (the Japanese P.E.N. Club),
kế tiếp Shimazaki Tooson, Masamune Hakuchoo và
Shiga Naoya. Trong các năm sau chiến tranh này,
ông có dịp tham dự một buổi
xử án các phạm nhân chiến tranh
tại thành phố Tokyo, thăm viếng thành
phố Hiroshima vào tháng 11 năm 1949 rồi
trước các hậu quả của
chiến tranh, nhà văn này không mô tả các
hoàn cảnh của bom rơi, đạn
nổ, người chết mà chỉ
muốn nói tới sự việc làm sao duy
trì được các truyền thống
Nhật Bản, nhất là nền Nghệ
Thuật của Thế Kỷ 18. Trong kỳ
Đại Hội Văn Bút Quốc Tế
tổ chức tại Tokyo vào năm 1957,
Yasunari Kawabata là Chủ Tịch của Đại
Hội, và đây là cơ hội mà các nhà
văn trên khắp thế giới công
nhận nước Nhật Bản Mới
với nền Văn Học Mới. Dành cho
mục tiêu này, ông Kawabata đã đi
nhiều nước, gặp các nhà văn
danh tiếng như T.S. Eliot, Francois Mauriac... và
sau Đại Hội kể trên, Yasunari
Kawabata trở thành nhà văn số một
của nước Nhật Bản, được
nhiều người trên khắp thế
giới biết tới danh tiếng.
3/ Giai đoạn ba với tác phẩm “Ngàn
Cánh Hạc”.
Vào năm 1949, một tác phẩm danh
tiếng của Yasunari Kawabata xuất
hiện, đó là cuốn tiểu thuyết
“Ngàn Cánh Hạc” (Sembazuru = A Thousand Cranes)
rồi năm sau là một loạt các bài
viết trên nhật báo Asahi của cuốn
truyện “Vũ Nữ” (Maihime = Dancing
Girl), sau đó nhà văn Kawabata hoàn thành
một tác phẩm khác vào năm 1952 :
cuốn “Âm Thanh của Miền Núi” (Yama
no Oto = The Sound of the Mountain).
Nhân vật chính trong tác phẩm “Ngàn Cánh
Hạc” là Mitani Kikuji, đã hành động
giống như Shimamura trong cuốn tiểu
thuyết “Xứ Tuyết”. Nhờ vai trò
của Mitani, các người đàn bà trong
cuộc đời của ông ta : bà Ota, con gái
của bà này là Fumiko, cùng các người
phụ nữ khác như cô Kurimoto và cô
Inamura, từng người một đã
bộc lộ ra các cá tính. Chủ đích
của nhà văn là ca ngợi vẻ đẹp
của Trà Đạo, của các nghi
thức uống trà và tác giả tiếc
nuối lễ uống trà đã bị
biến chất tới trình độ
tầm thường vì tính thương
mại hóa. Trong lễ uống trà, mỗi
đồ vật đều mang các vẻ
đặc biệt và trên hết là vẻ
đẹp thuần chất của người
con gái quấn chiếc khăn quàng có in hình
một Ngàn Cánh Hạc. Cô Inamura chỉ
xuất hiện ngắn hạn trong hai
cảnh trí và nói rất ít nhưng đã là
hiện thân của vẻ đẹp
truyền thống Nhật Bản. Cũng
trong tác phẩm “Ngàn Cánh Hạc”,
loại đồ sứ dùng trong lễ
uống trà và người nữ mời trà,
cả hai đều đẹp không
những khi nhìn ngắm mà cả khi
“tiếp xúc bằng tay” và “người
đàn bà giống như món đồ
sứ và món đồ sứ giống như
người đàn bà”, và có khi
“những ngón tay này còn lưu trữ
một trí nhớ sâu xa về một người
đàn bà mà tôi sắp gặp”.
Trong khi hai tác phẩm “Vũ Nữ Izu” và
“Xứ Tuyết” biểu hiện thời
trung niên của tác giả. tác phẩm “Âm
Thanh của Miền Núi” tượng trưng
cho tuổi cao niên của nhà văn Kawabata.
Khi viết ra tác phẩm này, nhà văn
Kawabata chưa tới thời kỳ già nua nhưng
chiến tranh đã làm cho tác giả già
đi trước tuổi, giống như nhân
vật Shingo trong tác phẩm. Đây là
cuốn tiểu thuyết đề cập
tới “cõi chết” và các linh cảm
về cõi chết bởi vì trong thời
chiến, cảnh chết chóc đã hiện
ra tại mọi nơi và tác gỉa đã
viết “không một ngày nào mà tôi không
nghĩ tới cõi chết”. Đối
với nhân vật Shingo, âm thanh của
miền núi là tiếng vang báo hiệu các người
thân của ông ta dần dần khuất bóng
khỏi thế gian, ông ta nhìn thấy
tuổi già tiến tới từ từ,
nhận ra các nét vẻ nơi bà vợ báo
trước cõi chết và ông già Shingo
sẽ không bao giờ leo Núi Phú Sĩ
nữa, dù cho trước kia việc leo núi
được thực hiện dễ dàng.
Tác phẩm “Âm Thanh của Miền Núi”
đề cập ngoài cõi chết ra, còn có
hoàn cảnh chào đời. Người con
trai của ông Shingo tên là Shuuichi có một
người tình đã mang thai. Vợ
của ông Shuuichi muốn người tình
đó phá thai nhưng cô gái này lại
muốn có một đứa con dù rằng
hai người đã chia ly và tác giả
được biết có một loại
hạt sen dù để qua một ngàn năm,
vẫn còn trồng được và nở
được ra hoa. Cách mô tả nhậy
cảm đặc biệt các nhân vật
trong tác phẩm “Âm Thanh của Miền Núi”
khiến cho các nhà phê bình coi đây là sáng
tác bậc nhất của Yasunari Kawabata.
Yamamoto Kenkichi đã viết rằng “Âm
Thanh của Miền Núi không chỉ là
một tác phẩm của Kawabata mà còn là tác
phẩm đứng đầu của
nền Văn Chương Nhật Bản
Hậu Chiến”. Tác phẩm đã
phối hợp được các gợi
cảm thơ mộng, trữ tình trong
thể văn cùng với cốt truyện
hấp dẫn, éo le, mô tả một
thế giới nhỏ, không thể quên
được, bên trong thế giới
lớn hơn là nước Nhật Bản
hậu chiến.
Vào năm 1954, Yasunari Kawabata cho phổ
biến dần dần trên nhật báo
cuốn tiểu thuyết “Cái Hồ”
(Mizuumi = The Lake). Do đã từng đọc
nhiều tác phẩm của Sigmund Freud,
Yasunari Kawabata biết rằng “Cái Hồ”
là hình ảnh liên hệ tới tình mẹ
và nhân vật chính trong tác phẩm là Gimpei
thường nghĩ tới “Cái Hồ”
bởi vì cha của chàng đã bị
giết, xác ném xuống hồ và chính chàng
cũng đã từng ném các con chuột
chết xuống đó. Trong tác phẩm “Cái
Hồ”, nhân vật Gimpei là một hình
ảnh nam hoạt động hơn, tác
phẩm này cũng chứa nhiều bạo
lực hơn các cuốn tiểu thuyết
khác và tác giả Yasunari Kawabata thường
xuyên liên hệ hiện tại với quá
khứ và các giấc mơ.
Năm 1955, Yasunari Kawabata hoàn thành một
loạt bài viết dài nhất đăng trên
nhật báo, với tên là “Người Dân
Tokyo” (Tookyoo no Hito = Tokyo People) rồi năm
sau là cuốn tiểu thuyết “Câu
Chuyện của một Thị Xã có Giòng Sông”
(Kawa no aru Shitamachi no Hanashi = Story of a Town with a
River) đồng thời cuốn truyện
“Sự Kiện là Phụ Nữ” (Onna de
aru Koto = The Fact of Being a Woman) xuất hiện
dần dần trên Nhật Báo Asahi.
Một tác phẩm quan trọng khác của
Yasunari Kawabata là cuốn “Căn Nhà của
các Người Đẹp đang ngủ”
(Nemureru Bijo = The House of the Sleeping Beauty). Đây
là một cuốn tiểu thuyết ngắn
(novella), lúc mới xuất hiện bị
kết án là “suy đồi đạo
đức”, kể về câu chuyện
của một người đàn ông cao
tuổi tên là Eguchi, đã thăm viếng
một căn nhà bí mật, nơi hò
hẹn lén lút của các người cao niên
phần lớn không còn khả năng tình
dục. Và cuốn truyện kể về năm
đêm trường Eguchi đã nằm bên các
người con gái lặng câm nhưng
trần truồng, say ma túy, và nhân vật
trong truyện này đã tôn trọng trinh
tiết của một thiếu nữ, đã
dừng lại tại một thời điểm.
Thật là khó khi đánh giá các người
con gái này bởi vì người đời
thường có một ý niệm về
một người qua quần áo, nữ
trang, lời nói, qua các đặc điểm
khác như tính tình và quá trình cuộc đời.
Tại căn nhà này, Eguchi chỉ phân
biệt các người Đẹp đang
ngủ bằng các chi tiết nằm trong trí
nhớ mà các nàng đã tạo ra cho Eguchi.
Trong thập niên 1960, Yasunari Kawabata tiếp
tục viết. Năm 1961 là năm khởi
đầu một loạt bài đăng hai
năm trên một tạp chí phụ nữ
với nhan đề là “Vẻ Đẹp
và Vẻ Buồn” (Utkutsushisa to Kanashimi to =
Beauty and Sadness). Một tác phẩm khác
của Kawabata là cuốn tiểu thuyết
“Cố Đô” (Koto = The Old Capital)
đăng trên nhật báo Asahi và được
Giải Thưởng Văn Hóa (Bunka Kunshoo),
một phần thưởng cao quý nhất nước
đồng thời tác phẩm “Căn Nhà
của các Người Đẹp đang
ngủ” khi xuất bản thành sách, cũng
đoạt Giải Thưởng Văn Hóa
Mainichi (The Mainichi Cultural Prize).
“Cố Đô” là một trong ba tác
phẩm của Yasunari Kawabata được
Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn
chứng khi tặng giải, có cốt
truyện phức tạp liên quan tới
một cặp chị em song sinh, đã
bị chia cách từ lúc mới chào đời
nhưng các yếu tố khiến cho các nhân
viên cứu xét Giải Thưởng Nobel
phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên
các vẻ đẹp của Thành Phố
Kyoto và các truyền thống cổ, với
các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ
duyên dáng, không bị nền văn hóa phương
Tây làm biến chất. Cùng với phần
lớn du khách, Kawabata ước muốn
rằng lối sống cổ truyền
Nhật Bản vẫn được duy trì.
Một cuốn tiểu thuyết ngắn
của Yasunari Kawabata viết ra vào các năm
1960 – 64 là tác phẩm “Một Cánh Tay”
(Kataude = One Arm), với câu nói của người
con gái “Em để lại qua đêm cho anh
một cánh tay” và “Nàng lấy cánh tay
phải ra khỏi vai rồi bằng tay trái,
đặt cánh tay đó lên đùi của tôi”.
Tác giả đã ngủ với cánh tay đó,
đã thay thế nó bằng cánh tay của
chính mình, đã ôm cánh tay nàng và hôn... , và
cánh tay đó có thể nói ra được,
biểu lộ lúc yêu và lúc ghét.. . Kỹ
thuật dùng trong cuốn tiểu thuyết này
thuộc loại Siêu Thực (Surrealism),
một cách thí nghiệm của Yasunari
Kawabata để trở về giai đoạn
đầu. Nhà phê bình Sasaki Kiichi đã so sánh
cuốn truyện “Một Cánh Tay” với
các bức họa của Marc Chagall, nhà danh
họa chuyên vẽ các giấc mơ. Hai phương
tiện quen thuộc trong các văn phẩm
của Yasunari Kawabata là các liên hệ
ngẫu nhiên (random associations) và các giấc
mơ (dreams), không những đã làm cho tác
phẩm có thêm chiều sâu thời gian mà còn
làm tăng mức độ phức tạp
của cấu trúc cuốn truyện,
khiến cho các điều quan sát trở thành
hiện thực hơn một cách bóng
bẩy.
Năm 1964, Yasunari Kawabata bắt đầu
viết tác phẩm “Cây Bồ Công Anh”
(Tampopo = Dandelion) nhưng tới năm 1968
cuốn tiểu thuyết này vẫn chưa
hoàn thành. Vào tháng 10 năm 1968, Kawabata
được báo tin về Giải Thưởng
Nobel. Nhà văn đã đi Stockholm lãnh
giải và trong dịp này, đã trình bày
một bài diễn văn ca ngợi nền Văn
Hóa Nhật Bản. Từ nay, Văn Hào
Yasunari Kawabata là nhà văn đoạt vinh
dự cao cả nhất của nước
Nhật Bản và được bầu vào
nhiều Viện Văn Chương của
nhiều quốc gia, lãnh văn bằng
Tiến Sĩ Danh Dự của trường
Đại Học Hawaii. Trong số các
chuyến đi Hoa Kỳ, Đài Loan và Đại
Hàn, Văn Hào Yasunari Kawabata được
coi như một vị Đại Sứ Văn
Hóa của nước Nhật Bản.
Vào tháng 11 năm 1970, cuộc tự sát
của nhà văn Mishima Yukio, một người
bạn thân, rồi sự qua đời
của nhà văn Shiga Naoya vào cuối năm
1971, đã gây nhiều đau đớn cho
Văn Hào Kawabata. Ngày 16 tháng 4 năm 1972,
Yasunari Kawabata rời nhà, đi tới
một căn nhà nhìn ra bờ biển Hayama.
Đây là nơi ông thường ngồi
viết tay các bản thảo. Đêm hôm
đó, Văn Hào Kawabata đã tự sát
bằng cách hít khí đốt mà không cho
biết lý do. Người ta đã không tìm
thấy một bức thư từ biệt
nào.
Yasunari Kawabata là nhà văn đi khám phá các
loại vẻ đẹp : nơi phong
cảnh của đất nước
Nhật Bản, nơi người phụ
nữ Nhật và cùng với vẻ đẹp
của các Nghệ Thuật trên xứ
Phù Tang. Các nhà phê bình đã phân biệt các
tác phẩm của Yasunari Kawabata thuộc
loại trung (chuukan) hay loại thuần văn
chương (jumbugaku = pure literature). Thuộc
về tiểu thuyết loại trung là các sáng
tác như “Người Dân Tokyo”, “Câu
Chuyện của một Thị Xã có Giòng Sông”,
“Sự Kiện là Phụ Nữ”. Dù cho
đã viết ra các cuốn truyện
hạng trung, nhưng Yasunari Kawabata không bao
giờ hạ tác phẩm xuống hạng
tầm thường hay “dâm thư”
(pornography) mặc dù loại sau này mang
lại nhiều độc giả, nhiều
lợi nhuận.
Qua các tác phẩm, Văn Hào Yasunari Kawabata
cố gắng mô tả nỗi Cô Đơn
và Vẻ Đẹp của “Cõi Chết”,
và tác giả đi tìm sự hòa hợp
giữa Con Người, Thiên Nhiên và
Khoảng Trống Rỗng.
|