Albert Camus

Vietsciences-Phạm Văn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng      30/03/2007

 

Những bài cùng tác giả

Albert Camus (1913–1960) Văn Hào Pháp , Giải Thưởng Nobel Văn Chương Năm 1957

1/ Cuộc đời của Albert Camus

            Albert Camus (07/11/1913 – 04/ 01/1960) là nhà văn viết tiểu thuyết, các bài bình luận và viết kịch, và cũng là nhà triết học người Pháp, một nhân vật danh tiếng trong trường phái Phi Lý (Absurdism). Albert Camus đã nhận được Giải Thưởng Nobel Văn Chương vào năm 1957, là người trẻ tuổi thứ hai đã từng lãnh Giải Thưởng danh dự này, nhưng ông qua đời năm 46 tuổi trong một tai nạn xe hơi. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Albert Camus là cuốn "Người Xa Lạ" (The Stranger, 1942) và cuốn "Bệnh Dịch hạch" (The Plague, 1947).

            Albert Camus chào đời vào ngày 7 tháng 11 năm 1913 trong làng Modovi, một nơi thuộc Constantinois gần Bône, nước Algeria. Cha của Albert là ông Lucien August Camus, một công nhân làm rượu (caviste), đã bị động viên, phục vụ trong trung đoàn bộ binh Zouave và bị thương trong Trận Marne năm 1914  vào thời kỳ đầu của Thế Chiến Thứ Nhất rồi qua đời tại nhà thương Saint Brieuc lúc 28 tuổi. Cậu bé Albert khi đó mới một tuổi đời, chỉ biết mặt cha bằng một tấm ảnh duy nhất.  Lớn lên  dưới sự chăm sóc của  mẹ, nhất là với ông ngoại độc tài và người cậu -anh trai của mẹ- bán thịt. Mẹ ông , Catherine Sintès, người gốc  Tây Ban Nha, phải đi giúp việc để kiếm tiền nuôi hai  con trai Lucien và Albert. Mẹ thương con nhưng không nói chuyện với nhau vì bà  gần như điếc và  không biết chữ, vì vậy gần như hai mẹ con hiếm khi tâm sự với nhau.

            Sau khi người cha qua đời, bà Catherine mang hai con về miền ngoại ô Belcourt của thành phố Algiers, cư ngụ trong một căn hộ chung với người mẹ ruột và các em. Đây là một khu kỹ nghệ với các tòa nhà nhiều tầng, chứa nhiều căn hộ chật chội, đông người. Các thiếu niên trong các tòa nhà này trong đó có Albert thường xuyên lang thang trên đường phố, la cà tại các rạp hát. Khung cảnh sinh hoạt đường phố này đã được nhân vật Meursault mô tả trong cuốn truyện “Người Xa Lạ” (L' Étranger - The Stranger) sau này.

            Belcourt cũng là một khu phố gồm nhiều sắc dân: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ả Rập. Cậu thiếu niên Albert đã trải qua nhiều buổi sáng đá bóng hay bơi lội hoặc nằm phơi nắng trên bờ biển. Albert Camus đã từng viết: “Tại châu Phi, ánh nắng và tắm biển thì không tốn tiền”. Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ này trái ngược với miền đất sỏi đá của địa phương, chỉ mang lại cho con người cuộc sống nghèo khó và tác giả Camus đã sớm cảm thấy điều phi lý của đời người, với con người vừa yếu đuối, vừa cô độc, sinh tồn trong sự phi lý vì cõi chết sập đến bất cứ lúc nào. "Mẹ đã chết ngày hôm nay. Hay là, có lẽ ngày hôm qua, tôi không biết nữa. Tôi đã nhận được một điện tín từ gia đình: "Mẹ đã qua đời. Đám táng ngày mai. Thân mến". Sự việc này không mang theo một ý nghĩa gì cả. Sự việc này đã có thể xẩy ra vào ngày hôm qua" (từ tác phẩm Người Xa Lạ).

1923-1924: Khi  ông lãnh giải Văn chương Nobel năm 1957, ông đã tỏ lời cám ơn thầy Louis Germain dạy lớp CM2 (lớp 5)  là nhờ thầy mà ông được tiếp tục  học lên. Thầy ông đã tình nguyện dạy kèm ông và   thuyết phục  gia đình cho ông thi tuyển  học bổng vào trường Trung học Bugeaud d'Alger năm 1924.

Camus là một đứa bé vui vẻ sống, yêu biển và phong cảnh Algérie, bơi rất tài và thích đá banh.

 

1929: Ông bắt đầu đọc Gide

1930: Ðậu Tú tài xong là bị lao phổi. Bệnh này đã làm ông  nhận thức một cách phũ phàng  sự bất công của cuộc sống, của sự sinh ra đời. Ngay lần đầu phát bệnh, ông đã nhận thấy cô độc, yếu đuối và cái chết. Bệnh nặng và kinh nghiệm sống còn trước tử thần đã trở nên một nỗi ám ảnh đối với Albert Camus, để sau này cảnh chết chóc thể hiện trong nhiều cốt truyện. Sau khi hồi phục, Albert Camus đi xin việc, đầu tiên làm thư ký cho sở Khí Tượng. Công việc buồn tẻ mỗi ngày, mỗi tuần, đã trở thành các ấn tượng nhàm chán, sâu xa.

1931: Tại trường Dự bị Ðại học ở  Alger (Khâgne) ông gặp giáo sư kiêm triết gia Jean Grenier. Vị giáo sư này đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự học của ông.

1932: Lần đầu đăng trong tạp chí Sud.

1933: Học Triết tại trường Ðại học Alger. Ông chống Phát Xít (fasciste).

 1934 : Albert Camus tham gia Đảng Cộng Sản Pháp và có lẽ, ông quan tâm tới các tác phẩm của Marx và Engels, tới hoàn cảnh chính trị của nước Tây Ban Nha vào giai đoạn bấy giờ, hơn là ủng hộ chủ nghĩa Marxisme-léninisme. Các nhà văn quan trọng cùng thời cũng theo khuynh hướng này gồm có André Malraux và André Gide.

1936: Ông hoạt động cho Đảng Nhân Dân Algérie (le Parti du Peuple Algérien), sự việc này đã khiến cho các đảng viên Cộng Sản khác bất bình với ông và vì vậy, Albert Camus bị lên án là một kẻ Trốt-kít (Trotskyite), đây là những người không theo chủ nghĩa Cộng Sản Stalin-nít.

1935:  Albert Camus tốt nghiệp văn bằng Cử Nhân Triết Học (licence de philosophie)

1936:  Sau khi học xong Cử nhân Triết, ông chuẩn bị bằng Cao học với tựa đề "les rapports du néoplatonisme et de la métaphysique chrétienne" (Sự liên quan giữa Thuyết Platon mới và tính siêu hình của Ki Tô giáo)

Tháng 5 năm 1936, trình luận án Cao Học (diplôme d'études supérieures) với đề tài "Trường Phái Tân Platon và Tư Tưởng Thiên Chúa Giáo" (Néo-Platonisme et Pensée Chrétienne).

          Năm này Albert Camus kết hôn với cô Simone Hié, một người nghiện thuốc phiện, nhưng hai năm sau, họ đã ly dị nhau bởi vì cả hai đều thiếu thủy chung. Trong thời gian này, ông gia nhập đảng Cộng sản,thành lập một nhóm kịch nghệ, tên là "Đoàn Hát của Công Nhân" (Théâtre du Travail – Worker's Theatre), ông lo phần diễn xuất và điều khiển các buổi tập dượt. Đoàn hát này vào năm 1937 đổi tên thành "Đoàn Hát của Nhóm" (Théâtre de l'Equipe – Team's Theatre), tồn tại tới năm 1939.

1937: Bệnh lao đã đóng cửa không cho ông  lấy bằng Thạc sĩ. Hai lần ông bị từ chối và ông  ra khỏi đàng Cộng sản. Ông vẫn luôn giữ trong lòng mảnh đất nơi ông sinh ra trong tác phẩm L'Été  năm 1954 (Mùa Hè) 

Cũng năm này, Albert Camus cho xuất bản tác phẩm khảo luận đầu tiên “Mặt Trái và Mặt Phải” (L’envers et l’endroit – Betwixt and Between) trong đó gồm các hồi tưởng thời thơ ấu tại Belcourt và tác giả đã pha trộn sự khôi hài với đặc tính trữ tình (lyricism), mô tả nỗi bất lực và cô đơn của con người trước cảnh chết, một tai nạn mang tính hư vô. Ông đã đề tặng cuốn sách này cho vị giáo sư Triết học cũ là ông Jean Grenier. Nhà triết học Brice Parain đã coi cuốn này tuy nhỏ nhưng là tác phẩm hạng nhất của Albert Camus, dù cho chính tác giả đã nhận rằng hình thức viết còn vụng về.

            Giữa các năm 1937 và 1939, Albert Camus đã viết nhiều bài điểm sách và khảo luận cho tờ báo khuynh tả “Người Cộng Hòa Alger” (Alger-Republicain) rồi làm chủ bút cho tờ "Người Cộng Hòa – Buổi Chiều" (Soir-Republicain) trong một thời gian ngắn. Vào lúc này, Albert Camus đã mô tả hoàn cảnh kinh tế nghèo khó của người Ả Rập, chỉ trích gay gắt chính phủ Pháp vì các chính sách tại xứ Algiers, đòi quyền bình đẳng cho các người Ả Rập ngang với người Âu, rồi sau khi tờ báo bị đóng cửa, bởi vì không tìm ra việc làm, Albert Camus phải rời xứ Algeria qua sống tại thành phố Paris. Ông Camus làm công trong một thời gian ngắn cho tờ báo "Paris - Buổi Chiều" (Paris-Soir) nhưng nghề viết báo này bị chấm dứt khi quân đội Đức tràn sang xâm chiếm nước Pháp. Tới lúc này, ông đành phải quay lại vùng Bắc Phi, dạy học tại một trường tư thục thuộc tỉnh Oran và lập gia đình lần thứ hai với cô Francine Faure, một nhà dương cầm kiêm toán học. Mặc dù yêu thương cô Francine và đã có hai con sinh đôi là Catherine và Jean Camus vào tháng 9 năm 1945, Albert Camus vẫn coi hôn nhân là không tự nhiên và thường nói đùa với các bạn bè là ông là người không thích hợp với hôn nhân. Bà Francine đã phải chịu đựng cảnh thiếu thủy chung của chồng, nhất là sự tai tiếng với cô diễn viên Maria Casares, người Tây Ban Nha.

 

Vợ và hai con gái sinh đôi 

 Với hai con

 

1941: Làm việc cho báo Combat (Chiến đấu) lo chuyện săn tin tức. Ông  là linh hồn của tờ báo này đến  năm 1947

            Vào thời kỳ đầu của Thế Chiến Thứ Hai, Albert Camus là một người chủ trương hòa bình (a pacifist) nhưng vào ngày 15/12/1941, ông đã chứng kiến cảnh hành quyết Gabriel Peri, sự việc này khiến ông chống lại quân Đức.

            Albert Camus tiếp tục viết và cho xuất bản vào năm 1942 cuốn “Người Xa Lạ” (L' Étranger - The Stranger) và “Huyền Thoại của Sisyphus” (Le Mythe de Sisyphe - The Myth of Sisyphus). Đây là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, bị các thần linh kết tội phải đời đời đẩy một tảng đá lớn lên đỉnh một ngọn đồi, coi tảng đá này lăn xuống rồi lại đẩy nó lên tiếp theo. Việc làm "vô nghĩa" này có giống như cuộc đời "phi lý" của con người hay không, và tác giả Camus không tin tưởng rằng "tôn giáo" có thể giải đáp được vấn đề trong khi "tự sát" không thể là một giải pháp.

            Từ 1942, Albert Camus trở thành một nhà văn ở tầm mức quốc tế và nhân vật Meursault trong cuốn “Người Xa Lạ” là một điển hình văn chương, một nhân vật phản diện (an anti-hero) không tin tưởng vào Thượng Đế (God) nhưng lại không thể nói dối. Cũng vào năm này, Albert Camus trở về nước Pháp, tham gia vào phong trào kháng chiến chống quân Đức Quốc Xã, viết bài cho tờ báo “Chiến Đấu” (Combat).

1943: Gặp Sartre.  La Peste (Dịch hạch) đợt đầu ra đời

1944: thành phố Paris được giải phóng. Albert Camus tiếp tục làm chủ bút cho tờ “Chiến Đấu”  (Combat) với các bài khảo luận về thời kỳ chiến tranh và trình bày hai vở kịch “Hiểu lầm” (Le Malentendu - The Misunderstanding)

 1945: Giới thiệu lần đầu Caligula cho Gérard Philipe, vở kịch sau này được rất nhiều người tán thưởng.

            Sau khi Thế Chiến chấm dứt, Albert Camus là một thành viên của nhóm các nhà văn do Jean Paul Sartre đứng đầu, họ thường hay lui tới quán cà phê Flore (Café de Flore) trên đại lộ St. Germain của thành phố Paris. Về chính trị, Albert Camus là một người khuynh tả nhưng vì ông chỉ trích mạnh mẽ chế độ Cộng Sản nên đã không có bạn bè trong số các đảng viên và về sau, bất hòa với Jean Paul Sartre. Tố cáo  sự tàn sát  dân Algérie  tháng 8 1945 (Massacre Sétif), sự dã man của  công lý sau chiến tranh.

1946: Albert Camus du lịch qua Hoa Kỳ,  diễn thuyết về chủ thuyết Hiện Sinh của trường phái Pháp (French Existentialism) tại nhiều nơi. 

Cuốn “Sa Ngã” (La Chute – The Fall) được Albert Camus cho xuất hiện, tác phẩm này không dài như cuốn “Bệnh Dịch hạch” nhưng là một tiểu thuyết được viết cẩn thận như cuốn “Người Xa Lạ”.

 

1947 Tố cáo sự tàn sát  ở Madagascar

10 tháng 6 năm 1947, cuốn truyện “Bệnh Dịch hạch” (La Peste – The Plague) xuất hiện, đã trở nên một tác phẩm văn chương quan trọng, được giải Des Critiques.

 

1948: Gìới thiệu đầu tiên cho L'État de Siège

1949: Sau chuyến đi vòng quanh Nam Mỹ, Albert Camus trở về nước Pháp, bị mắc bệnh và hoàn toàn sống ẩn dật nhưng thỉnh thoảng ông cũng viết vài bài khảo luận chính trị. Albert Camus phục hồi sức khỏe

 Kêu gọi ân huệ cho những người cộng sản Hy Lạp bị tội tử hình 

12/1949: Giới thiệu Justes cho nhà hát Hébertot.

1950: In tập Actuelles I  và Le Minotaure hay  la halte d'Oran

1951: cho xuất bản cuốn “Người Nổi Loạn” (L’homme Révolté - The Rebel), đây là cuốn sách phân tích theo triết học sự nổi loạn và cách mạng, khám phá các lý thuyết và các hình thức của cách nổi loạn của con người chống lại nhà cầm quyền (authority), đã gây tranh luận và bị J. P. Sartre chỉ trích trong cuốn Thời Đại Mới (Temps Modernes). Sự tranh cãi đã khiến cho Albert Camus cắt đứt liên lạc với nhà văn kiêm triết gia Jean Paul Sartre và chứng tỏ rằng Albert Camus bác bỏ chủ nghĩa Cộng Sản.

            Sau tác phẩm kể trên, Albert Camus bắt tay vào công việc dịch thuật các vở kịch quốc tế: La Devocion de la Cruz của Calderon, Les Espirits của Larivey, Un Caso Clinico của Buzzati, Requiem for a Nun của Faulkner...

1952: Từ chức  ra khỏi UNESCO 

Trong thập niên 1950, Albert Camus dành thời giờ cho các hoạt động về nhân quyền.            

1953: In Actuelles II (Hiện Tại II)

1954: In thử  quyển "Mùa hè" ( L'Été)

            Ông là một trong một số ít người đứng lên chỉ trích phương pháp đàn áp các công nhân tại vùng Tây Berlin theo kiểu Xô Viết.

1955: Giới thiệu quyển "Một trường hợp" (Un Cas). Du lịch sang Grèce.

 1955-1956:  Ông viết trong tờ Express về những vụ khủng hoảng bên Algérie

1956: Ông chống đối quân đội Liên Xô đã xâm chiếm và đàn áp Hongrie

22/01 Ông kêu gọi sự tạm đình chiến  trong nước bên Algérie nhưng lời kêu gọi chẳng gây tiếng  vang nào hết. Tình hình còn  nóng bỏng thêm. Có những cuộc khủng bố xảy ra khắp nơi.

Tháng 4,5,6,10 qua  Hòa Lan chơi, nơi này làm khung cảnh cho quyển La Chute.

1956: In quyển "Sụp đổ" (La Chute)

Albert Camus chủ trương chính sách hòa bình (pacifism), phản đối mọi cách tử hình trên thế giới. Cuộc chiến tranh giành độc lập của xứ Algeria nổ ra vào năm 1954, đã khiến cho Albert Camus ở vào tình trạng khó xử. Trước kia, ông đã từng nhận rằng mình thuộc về lớp người "chân đen" (pieds-noirs) là những người gốc châu Âu tại miền đất Bắc Phi, tới nay, ông ủng hộ nền tự trị của xứ Algeria nhưng lại bênh vực các chính sách của nước Pháp vì cho rằng cuộc cách mạng tại xứ thuộc địa Bắc Phi là do nước Ai Cập, là một phần của chủ nghĩa đế quốc Ả Rập mới (new Arab imperialism) và cũng do Liên Xô xúi dục để bao vây châu Âu và cô lập Hoa Kỳ.

            Trong suốt cuộc đời, Albert Camus luôn luôn nói rõ và tích cực hành động để chống lại chế độ toàn trị (totalitarianism) bất cứ thuộc hình thức nào, dù là chế độ Phát Xít của Đức Quốc Xã hay chế độ marxiste cực đoan. Ông đã tham gia vào Phong Trào Kháng Chiến Pháp, điều khiển tờ báo kháng chiến danh tiếng Combat, và ông đã viết: "Bây giờ, chỉ có một giá trị đạo đức là lòng cam đảm, đức tính này cần thiết để xét xử các kẻ bù nhìn (the puppets) và các kẻ to mồm (the chatterboxes) thường khoe rằng mình lên tiếng vì nhân dân" (to speak in the name of the people).

            Albert Camus thường chỉ trích Jean Paul Sartre vì thiếu cách chống đối chế độ toàn trị và trong tác phẩm "Người nổi loạn" (L' Homme Révolté – The Rebel), ông đã tấn công đất nước Xô Viết dùng công an trị (the Soviet police state), nói lên các tàn bạo của cách đàn áp đẫm máu của quân đội Xô Viết trong cuộc Cách Mạng Hongrie năm 1956.

Từ năm 1955 tới năm 1956, Albert Camus viết bài cho tờ báo Tốc Hành (L'Express)

1957: "Kẻ lưu vong và vương quốc" (L'exil et le royaume). (Truyện ngắn) , "Suy nghĩ về tội tử hình" (Réflexions sur la peine capitale)

 Tháng 10 năm 1957, Albert Camus được trao tặng Giải Thưởng Nobel Văn Chương vì “tất cả các tác phẩm của ông đã đưa ra ánh sáng một cách nghiêm chỉnh và đi vào lòng người những vấn đề xẩy ra cho chúng ta hiện này cùng với lương tâm của con người”.

1958: Xuống tinh thần. Ðăng Discours de Suède et d'Actuelles III. Mua nhà ở Lourmarin vùng Lubéron

1959: Giới thiệu "Những người bị quỷ ám" (Les possédés)  cho Dostoïevsky

 4/1/1960: Bị tai nạn xe hơi gần Sens, trong xe của Michel Gallimard, trong khi ông  đang  ở đỉnh cao của vinh quang và đang viết quyển "Người đầu tiên" (Premier Homme, di cảo, năm 1994)

Văn Hào Albert Camus trước kia đã ý thức được cách chết đột ngột một cách "phi lý". Trong cuộc đời, "cõi chết" là tận cùng của chu kỳ sinh tử và trong cuộc sống, con người đã chiếu lên trên các khung cảnh sống các giấc mơ và hy vọng, trong khi đó Thượng Đế luôn luôn im lặng.

Sau khi qua đời, hai tác phẩm của Albert Camus được xuất bản, cuốn đầu tiên có tên là "Một cách chết hạnh phúc" (La Mort heureuse - A Happy Death), phát hành năm 1970 và cuốn thứ hai, "Người Đầu Tiên" (Le premier homme - The First Man). Đây là một tiểu thuyết mang tính tiểu sử tự thuật (autobiographical) về thuở ban đầu của tác giả tại xứ Algeria, được phát hành vào năm 1995.

            Các tác phẩm của Văn Hào Albert Camus đã nối nhịp cầu giữa văn chương và triết học, đặt ra các nỗi thắc mắc về ý nghĩa của đời người trong một thế giới đầy lo âu và phi lý.

  

2/ Cốt truyện của tác phẩm Người Xa Lạ.

3/ Ý nghĩa của tác phẩm Người Xa Lạ. 

4/ Nghịch lý của Phi lý.

            Bấm vào để đọc

 

 http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Phạm Văn Tuấn và Võ Thị Diệu Hằng