Những bài cùng tác giả
Albert Camus (1913–1960) Văn Hào Pháp , Giải
Thưởng Nobel Văn Chương Năm 1957
1/ Cuộc đời của Albert Camus
Albert Camus (07/11/1913 – 04/ 01/1960) là nhà văn viết tiểu thuyết, các bài bình luận và viết kịch, và cũng là nhà triết học người Pháp, một nhân
vật danh tiếng trong trường phái Phi Lý (Absurdism). Albert Camus đã nhận
được Giải Thưởng Nobel Văn Chương vào năm 1957, là người trẻ tuổi thứ hai đã
từng lãnh Giải Thưởng danh dự này, nhưng ông qua đời năm 46 tuổi trong một
tai nạn xe hơi. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Albert Camus là cuốn "Người
Xa Lạ" (The Stranger, 1942) và cuốn "Bệnh Dịch hạch" (The Plague, 1947).
Albert Camus
chào đời vào ngày 7 tháng 11 năm 1913 trong làng Modovi, một nơi thuộc
Constantinois gần Bône, nước Algeria. Cha của Albert là ông Lucien August
Camus, một công nhân làm rượu (caviste), đã bị động viên, phục vụ trong
trung đoàn bộ binh Zouave và bị thương trong Trận Marne năm 1914 vào thời
kỳ đầu của Thế Chiến Thứ Nhất rồi qua đời tại nhà thương Saint Brieuc lúc 28
tuổi. Cậu bé Albert khi đó mới một tuổi đời, chỉ biết mặt cha bằng một tấm
ảnh duy nhất. Lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ, nhất là với ông ngoại độc
tài và người cậu -anh trai của mẹ- bán thịt. Mẹ ông , Catherine Sintès,
người gốc Tây Ban Nha, phải đi giúp việc để kiếm tiền nuôi hai con trai
Lucien và Albert. Mẹ thương con nhưng không nói chuyện với nhau vì bà gần
như điếc và không biết chữ, vì vậy gần như hai mẹ con hiếm khi tâm sự với
nhau.
Sau khi người
cha qua đời, bà Catherine mang hai con về miền ngoại ô Belcourt của thành
phố Algiers, cư ngụ trong một căn hộ chung với người mẹ ruột và các em. Đây
là một khu kỹ nghệ với các tòa nhà nhiều tầng, chứa nhiều căn hộ chật chội,
đông người. Các thiếu niên trong các tòa nhà này trong đó có Albert thường
xuyên lang thang trên đường phố, la cà tại các rạp hát. Khung cảnh sinh hoạt
đường phố này đã được nhân vật Meursault mô tả trong cuốn truyện “Người Xa
Lạ” (L' Étranger - The Stranger) sau này.
Belcourt cũng
là một khu phố gồm nhiều sắc dân: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ả Rập. Cậu
thiếu niên Albert đã trải qua nhiều buổi sáng đá bóng hay bơi lội hoặc nằm
phơi nắng trên bờ biển. Albert Camus đã từng viết: “Tại châu Phi, ánh nắng
và tắm biển thì không tốn tiền”. Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ này trái
ngược với miền đất sỏi đá của địa phương, chỉ mang lại cho con người cuộc
sống nghèo khó và tác giả Camus đã sớm cảm thấy điều phi lý của đời người,
với con người vừa yếu đuối, vừa cô độc, sinh tồn trong sự phi lý vì cõi chết
sập đến bất cứ lúc nào. "Mẹ đã chết ngày hôm nay. Hay là, có lẽ ngày hôm
qua, tôi không biết nữa. Tôi đã nhận được một điện tín từ gia đình:
"Mẹ đã qua đời. Đám táng ngày mai. Thân mến". Sự việc này không mang theo
một ý nghĩa gì cả. Sự việc này đã có thể xẩy ra vào ngày hôm qua" (từ
tác phẩm Người Xa Lạ).
1923-1924: Khi ông lãnh giải Văn chương
Nobel năm 1957,
ông đã tỏ lời cám ơn thầy Louis Germain dạy lớp CM2 (lớp 5) là
nhờ thầy mà ông được tiếp tục học lên. Thầy ông đã tình nguyện dạy kèm ông
và thuyết phục gia đình cho ông thi tuyển học bổng vào trường Trung học
Bugeaud d'Alger năm 1924.
Camus là một đứa bé vui vẻ sống, yêu biển và
phong cảnh Algérie, bơi rất tài và thích đá banh.
1929: Ông bắt đầu đọc Gide
1930: Ðậu Tú tài xong là bị
lao phổi. Bệnh này đã làm ông nhận thức một cách phũ phàng sự bất công của
cuộc sống, của sự sinh ra đời. Ngay lần đầu phát bệnh, ông đã nhận thấy cô
độc, yếu đuối và cái chết. Bệnh nặng và kinh nghiệm sống còn trước tử thần
đã trở nên một nỗi ám ảnh đối với Albert Camus, để sau này cảnh chết chóc
thể hiện trong nhiều cốt truyện. Sau khi hồi phục, Albert Camus đi xin việc,
đầu tiên làm thư ký cho sở Khí Tượng. Công việc buồn tẻ mỗi ngày, mỗi tuần,
đã trở thành các ấn tượng nhàm chán, sâu xa.
1931: Tại trường Dự bị Ðại học ở Alger
(Khâgne) ông gặp giáo sư kiêm triết gia Jean Grenier. Vị giáo sư này đã gây
nhiều ảnh hưởng đến sự học của ông.
1932: Lần đầu đăng trong tạp chí Sud.
1933: Học Triết tại trường Ðại học Alger. Ông
chống Phát Xít (fasciste).
1934 : Albert Camus tham
gia Đảng Cộng Sản Pháp và có lẽ, ông quan tâm tới các tác phẩm của Marx và
Engels, tới hoàn cảnh chính trị của nước Tây Ban Nha vào giai đoạn bấy giờ,
hơn là ủng hộ chủ nghĩa Marxisme-léninisme. Các nhà văn quan trọng cùng thời
cũng theo khuynh hướng này gồm có André Malraux và André Gide.
1936: Ông hoạt động cho
Đảng Nhân Dân Algérie (le Parti du Peuple Algérien), sự việc này đã khiến
cho các đảng viên Cộng Sản khác bất bình với ông và vì vậy, Albert Camus bị
lên án là một kẻ Trốt-kít (Trotskyite), đây là những người không theo chủ
nghĩa Cộng Sản Stalin-nít.
1935: Albert Camus tốt
nghiệp văn bằng Cử Nhân Triết Học (licence de philosophie)
1936: Sau khi học xong Cử
nhân Triết, ông chuẩn bị bằng Cao học với tựa đề "les rapports du
néoplatonisme et de la métaphysique chrétienne" (Sự liên quan giữa Thuyết
Platon mới và tính siêu hình của Ki Tô giáo)
Tháng 5 năm 1936, trình
luận án Cao Học (diplôme d'études supérieures) với đề tài "Trường Phái Tân
Platon và Tư Tưởng Thiên Chúa Giáo" (Néo-Platonisme et Pensée Chrétienne).
Năm này Albert
Camus kết hôn với cô Simone Hié, một người nghiện thuốc phiện, nhưng hai năm
sau, họ đã ly dị nhau bởi vì cả hai đều thiếu thủy chung. Trong thời gian
này, ông gia nhập đảng Cộng sản,thành lập một nhóm kịch nghệ, tên là "Đoàn
Hát của Công Nhân" (Théâtre du Travail – Worker's Theatre), ông lo phần diễn
xuất và điều khiển các buổi tập dượt. Đoàn hát này vào năm 1937 đổi tên
thành "Đoàn Hát của Nhóm" (Théâtre de l'Equipe – Team's Theatre), tồn tại
tới năm 1939.
1937: Bệnh lao đã đóng cửa
không cho ông lấy bằng Thạc sĩ. Hai lần ông bị từ chối và ông ra khỏi đàng
Cộng sản. Ông vẫn luôn giữ trong lòng mảnh đất nơi ông sinh ra trong tác
phẩm L'Été năm 1954 (Mùa Hè)
Cũng năm này, Albert Camus cho xuất bản tác phẩm
khảo luận đầu tiên “Mặt Trái và Mặt Phải” (L’envers et l’endroit – Betwixt
and Between) trong đó gồm các hồi tưởng thời thơ ấu tại Belcourt và tác giả
đã pha trộn sự khôi hài với đặc tính trữ tình (lyricism), mô tả nỗi bất lực
và cô đơn của con người trước cảnh chết, một tai nạn mang tính hư vô. Ông đã
đề tặng cuốn sách này cho vị giáo sư Triết học cũ là ông Jean Grenier. Nhà
triết học Brice Parain đã coi cuốn này tuy nhỏ nhưng là tác phẩm hạng nhất
của Albert Camus, dù cho chính tác giả đã nhận rằng hình thức viết còn vụng
về.
Giữa các năm
1937 và 1939, Albert Camus đã viết nhiều bài điểm sách và khảo luận cho tờ
báo khuynh tả “Người Cộng Hòa Alger” (Alger-Republicain) rồi làm chủ bút cho
tờ "Người Cộng Hòa – Buổi Chiều" (Soir- Republicain)
trong một thời gian ngắn. Vào lúc này, Albert Camus đã mô tả hoàn cảnh kinh
tế nghèo khó của người Ả Rập, chỉ trích gay gắt chính phủ Pháp vì các chính
sách tại xứ Algiers, đòi quyền bình đẳng cho các người Ả Rập ngang với người
Âu, rồi sau khi tờ báo bị đóng cửa, bởi vì không tìm ra việc làm, Albert
Camus phải rời xứ Algeria qua sống tại thành phố Paris. Ông Camus làm công
trong một thời gian ngắn cho tờ báo "Paris - Buổi Chiều" (Paris-Soir) nhưng
nghề viết báo này bị chấm dứt khi quân đội Đức tràn sang xâm chiếm nước
Pháp. Tới lúc này, ông đành phải quay lại vùng Bắc Phi, dạy học tại một
trường tư thục thuộc tỉnh Oran và lập gia đình lần thứ hai với cô Francine
Faure, một nhà dương cầm kiêm toán học. Mặc dù yêu thương cô Francine và đã
có hai con sinh đôi là Catherine và Jean Camus vào tháng 9 năm 1945, Albert
Camus vẫn coi hôn nhân là không tự nhiên và thường nói đùa với các bạn bè là
ông là người không thích hợp với hôn nhân. Bà Francine đã phải chịu đựng
cảnh thiếu thủy chung của chồng, nhất là sự tai tiếng với cô diễn viên Maria
Casares, người Tây Ban Nha.
 |
|
Vợ và hai con gái sinh đôi |
Với hai con |
|
|
1941: Làm việc cho báo Combat (Chiến đấu) lo
chuyện săn tin tức. Ông là linh hồn của tờ báo này đến năm 1947
Vào thời kỳ đầu
của Thế Chiến Thứ Hai, Albert Camus là một người chủ trương hòa bình (a
pacifist) nhưng vào ngày 15/12/1941, ông đã chứng kiến cảnh hành quyết
Gabriel Peri, sự việc này khiến ông chống lại quân Đức.
Albert Camus
tiếp tục viết và cho xuất bản vào năm 1942 cuốn “Người Xa Lạ” (L' Étranger -
The Stranger) và “Huyền Thoại của Sisyphus” (Le Mythe de Sisyphe - The Myth
of Sisyphus). Đây là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, bị các thần linh kết
tội phải đời đời đẩy một tảng đá lớn lên đỉnh một ngọn đồi, coi tảng đá này
lăn xuống rồi lại đẩy nó lên tiếp theo. Việc làm "vô nghĩa" này có giống như
cuộc đời "phi lý" của con người hay không, và tác giả Camus không tin tưởng
rằng "tôn giáo" có thể giải đáp được vấn đề trong khi "tự sát" không thể là
một giải pháp.
Từ 1942, Albert
Camus trở thành một nhà văn ở tầm mức quốc tế và nhân vật Meursault trong
cuốn “Người Xa Lạ” là một điển hình văn chương, một nhân vật phản diện (an
anti-hero) không tin tưởng vào Thượng Đế (God) nhưng lại không thể nói dối.
Cũng vào năm này, Albert Camus trở về nước Pháp, tham gia vào phong trào
kháng chiến chống quân Đức Quốc Xã, viết bài cho tờ báo “Chiến Đấu”
(Combat).
1943: Gặp Sartre. La Peste
(Dịch hạch) đợt đầu ra đời
1944: thành phố Paris được
giải phóng. Albert Camus tiếp tục làm chủ bút cho tờ “Chiến Đấu” (Combat)
với các bài khảo luận về thời kỳ chiến tranh và trình bày hai vở kịch “Hiểu
lầm” (Le Malentendu - The Misunderstanding)
1945: Giới thiệu lần đầu
Caligula cho Gérard Philipe, vở kịch sau này được rất nhiều người tán
thưởng.
Sau khi Thế
Chiến chấm dứt, Albert Camus là một thành viên của nhóm các nhà văn do Jean
Paul Sartre đứng đầu, họ thường hay lui tới quán cà phê Flore (Café de
Flore) trên đại lộ St. Germain của thành phố Paris. Về chính trị, Albert
Camus là một người khuynh tả nhưng vì ông chỉ trích mạnh mẽ chế độ Cộng Sản
nên đã không có bạn bè trong số các đảng viên và về sau, bất hòa với Jean
Paul Sartre. Tố cáo sự tàn sát dân Algérie tháng 8 1945 (Massacre Sétif),
sự dã man của công lý sau chiến tranh.
1946: Albert Camus du lịch
qua Hoa Kỳ, diễn thuyết về chủ thuyết Hiện Sinh của trường phái Pháp
(French Existentialism) tại nhiều nơi.
Cuốn “Sa Ngã” (La Chute –
The Fall) được Albert Camus cho xuất hiện, tác phẩm này không dài như cuốn
“Bệnh Dịch hạch” nhưng là một tiểu thuyết được viết cẩn thận như cuốn “Người
Xa Lạ”.
1947 Tố cáo sự tàn sát ở Madagascar
10 tháng 6 năm 1947, cuốn truyện “Bệnh
Dịch hạch”
(La Peste – The Plague) xuất hiện, đã trở nên một tác phẩm văn chương quan
trọng, được giải Des Critiques.
1948: Gìới thiệu đầu tiên cho L'État de Siège
1949: Sau chuyến đi vòng
quanh Nam Mỹ, Albert Camus trở về nước Pháp, bị mắc bệnh và hoàn toàn sống
ẩn dật nhưng thỉnh thoảng ông cũng viết vài bài khảo luận chính trị. Albert
Camus phục hồi sức khỏe
Kêu gọi ân huệ cho những người cộng sản Hy Lạp bị tội tử hình
12/1949: Giới thiệu Justes cho nhà hát Hébertot.
1950: In tập
Actuelles
I và Le Minotaure
hay la halte d'Oran
1951: cho xuất bản cuốn
“Người Nổi Loạn” (L’homme Révolté - The Rebel), đây là cuốn sách phân tích
theo triết học sự nổi loạn và cách mạng, khám phá các lý thuyết và các hình
thức của cách nổi loạn của con người chống lại nhà cầm quyền (authority), đã
gây tranh luận và bị J. P. Sartre chỉ trích trong cuốn Thời Đại Mới (Temps
Modernes). Sự tranh cãi đã khiến cho Albert Camus cắt đứt liên lạc với nhà
văn kiêm triết gia Jean Paul Sartre và chứng tỏ rằng Albert Camus bác bỏ chủ
nghĩa Cộng Sản.
Sau tác phẩm kể
trên, Albert Camus bắt tay vào công việc dịch thuật các vở kịch quốc tế: La
Devocion de la Cruz của Calderon, Les Espirits của Larivey, Un Caso Clinico
của Buzzati, Requiem for a Nun của Faulkner...
1952: Từ chức ra khỏi
UNESCO
Trong thập niên 1950,
Albert Camus dành thời giờ cho các hoạt động về nhân quyền.
1953:
In
Actuelles II (Hiện Tại
II)
1954:
In thử quyển "Mùa hè" ( L'Été)
Ông là một
trong một số ít người đứng lên chỉ trích phương pháp đàn áp các công nhân
tại vùng Tây Berlin theo kiểu Xô Viết.
1955: Giới thiệu quyển "Một
trường hợp" (Un Cas). Du lịch sang Grèce.
1955-1956: Ông viết trong
tờ Express về những vụ khủng hoảng bên Algérie
1956: Ông chống đối quân
đội Liên Xô đã xâm chiếm và đàn áp Hongrie
22/01 Ông kêu gọi sự tạm đình chiến trong
nước bên Algérie nhưng lời kêu gọi chẳng gây tiếng vang nào hết. Tình hình
còn nóng bỏng thêm. Có những cuộc khủng bố xảy ra khắp nơi.
Tháng 4,5,6,10 qua Hòa Lan chơi, nơi này làm
khung cảnh cho quyển La Chute.
1956: In quyển
"Sụp đổ"
(La Chute)
Albert Camus chủ trương
chính sách hòa bình (pacifism), phản đối mọi cách tử hình trên thế giới.
Cuộc chiến tranh giành độc lập của xứ Algeria nổ ra vào năm 1954, đã khiến
cho Albert Camus ở vào tình trạng khó xử. Trước kia, ông đã từng nhận rằng
mình thuộc về lớp người "chân đen" (pieds-noirs) là những người gốc châu Âu
tại miền đất Bắc Phi, tới nay, ông ủng hộ nền tự trị của xứ Algeria nhưng
lại bênh vực các chính sách của nước Pháp vì cho rằng cuộc cách mạng tại xứ
thuộc địa Bắc Phi là do nước Ai Cập, là một phần của chủ nghĩa đế quốc Ả Rập
mới (new Arab imperialism) và cũng do Liên Xô xúi dục để bao vây châu Âu và
cô lập Hoa Kỳ.
Trong suốt cuộc
đời, Albert Camus luôn luôn nói rõ và tích cực hành động để chống lại chế độ
toàn trị (totalitarianism) bất cứ thuộc hình thức nào, dù là chế độ Phát Xít
của Đức Quốc Xã hay chế độ marxiste cực đoan. Ông đã tham gia vào Phong Trào
Kháng Chiến Pháp, điều khiển tờ báo kháng chiến danh tiếng Combat, và ông đã
viết: "Bây giờ, chỉ có một giá trị đạo đức là lòng cam đảm, đức tính này
cần thiết để xét xử các kẻ bù nhìn (the puppets) và các kẻ to mồm (the
chatterboxes) thường khoe rằng mình lên tiếng vì nhân dân"
(to speak in
the name of the people).
Albert Camus
thường chỉ trích Jean Paul Sartre vì thiếu cách chống đối chế độ toàn trị và
trong tác phẩm "Người nổi loạn" (L' Homme Révolté – The Rebel), ông đã tấn
công đất nước Xô Viết dùng công an trị (the Soviet police state), nói lên
các tàn bạo của cách đàn áp đẫm máu của quân đội Xô Viết trong cuộc Cách
Mạng Hongrie năm 1956.
Từ năm 1955 tới năm 1956,
Albert Camus viết bài cho tờ báo Tốc Hành (L'Express)
1957:
"Kẻ lưu vong
và vương quốc" (L'exil et le royaume). (Truyện ngắn) , "Suy
nghĩ về tội tử hình" (Réflexions sur
la peine capitale)
Tháng 10 năm 1957, Albert
Camus được trao tặng Giải Thưởng Nobel Văn Chương vì
“tất cả các tác phẩm
của ông đã đưa ra ánh sáng một cách nghiêm chỉnh và đi vào lòng người những
vấn đề xẩy ra cho chúng ta hiện này cùng với lương tâm của con người”.
1958:
Xuống tinh thần.
Ðăng
Discours de Suède et d'Actuelles III. Mua nhà ở Lourmarin vùng Lubéron
1959: Giới thiệu
"Những người bị quỷ ám" (Les possédés)
cho Dostoïevsky
4/1/1960: Bị tai nạn xe
hơi gần Sens, trong xe của Michel
Gallimard,
trong khi ông đang ở đỉnh cao của vinh
quang và đang viết quyển "Người đầu tiên" (Premier Homme, di cảo, năm
1994)
Văn Hào Albert Camus trước
kia đã ý thức được cách chết đột ngột một cách "phi lý". Trong cuộc đời,
"cõi chết" là tận cùng của chu kỳ sinh tử và trong cuộc sống, con người đã
chiếu lên trên các khung cảnh sống các giấc mơ và hy vọng, trong khi đó
Thượng Đế luôn luôn im lặng.
Sau khi qua đời, hai tác
phẩm của Albert Camus được xuất bản, cuốn đầu tiên có tên là "Một cách chết
hạnh phúc" (La Mort heureuse - A Happy Death), phát hành năm 1970 và cuốn
thứ hai, "Người Đầu Tiên" (Le premier homme - The First Man). Đây là một
tiểu thuyết mang tính tiểu sử tự thuật (autobiographical) về thuở ban đầu
của tác giả tại xứ Algeria, được phát hành vào năm 1995.
Các tác phẩm
của Văn Hào Albert Camus đã nối nhịp cầu giữa văn chương và triết học, đặt
ra các nỗi thắc mắc về ý nghĩa của đời người trong một thế giới đầy lo âu và
phi lý.
Bấm vào để đọc
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org
Phạm Văn Tuấn và Võ Thị Diệu Hằng
|