Những bài cùng tác giả
1/Tóm tắt
Meursault
là một người thư ký lãnh việc gửi hàng hóa trong tỉnh Algiers thuộc miền Bắc
Phi, đã nghe tin bà mẹ của mình qua đời trong một nhà dưỡng lão. Anh chàng
này tham dự lễ an táng của mẹ mình nhưng đã không tỏ lộ nỗi đau đớn trước
cảnh tang thương, đây là một điều mà xã hội của anh không chấp nhận. Sau đám
táng, Meursault trở về tỉnh cũ.
Hôm sau là ngày
thứ bẩy, Meursault đi bơi và đã gặp Marie Cardona, một người đàn bà trẻ
trước kia đã từng làm việc với anh tại văn phòng. Họ cùng nhau đi coi phim
rồi về nhà và làm tình với nhau. Vào ngày chủ nhật, Meursault ở nhà một
mình, ngắm cảnh người qua lại trên đường phố bên dưới.
Qua chiều hôm
sau, Meursault gặp một người hàng xóm tên là Raymond Sintes, anh này mời
Meursault đi ăn tối và kể lại rằng người bạn gái Ả Rập của anh ta đã không
thủy trung nên muốn trả thù. Sintes nhờ Meursault viết dùm một bức thư để cô
này trở lại rồi khi đó mới xỉ vả và đuổi cô ta đi. Meursault đồng ý làm công
việc này.
Vào cuối tuần
lễ kế tiếp, Meursault và Marie đi bơi với nhau. Họ trở lại nhà của Meursault
và nghe thấy tiếng cãi lộn bên trong căn phòng của Raymond. Một nhóm đông đã
tụ họp trước căn phòng này. Meursault không chịu gọi cảnh sát thì một người
láng giềng đã làm công việc đó. Khi tới nơi, viên cảnh sát mới khám phá ra
rằng Raymond đã đánh đập người con gái.
Ngày hôm sau,
Meursault, Marie và Raymond cùng bạn là Masson cùng đi trên bờ biển. Trước
khi từ biệt ra xe buýt, Raymond đã chỉ cho Meursault thấy hai người Ả Rập
đứng gần trạm ngừng xe và một người là anh của người con gái mà Raymond đã
bạo hành.
Một hôm khi đi
ra bờ biển và vì ánh sáng quá chói chan, Meursault bèn tìm bóng mát ở phần
cuối bờ biển thì bỗng gặp các người Ả Rập đứng bên trong, họ tưởng rằng
chàng tới gây hấn, nên đã rút ra một con dao. Vì bị lóa mắt, Meursault đã
rút súng ra và bắn chết một người.
Meursault bị
tống giam. Vị luật sư bào chữa do Tòa chỉ định đã cho chàng biết rằng cảnh
sát đã nhận biết sự tàn nhẫn khá lớn lao của chàng trong dịp lễ an táng của
bà mẹ chàng. Meursault đã ngạc nhiên vì sự việc kể trên không liên quan gì
tới vụ giết người và chàng đã cắt nghĩa rằng vào ngày tang lễ, chàng quá mệt
mỏi nên không tích cực trong nghi lễ. Vào một ngày hỏi cung khác, vị công tố
khuyên chàng nên hối lỗi và trông nhờ vào Thượng Đế. Meursault đã từ chối
lời khuyên, vì chàng không tin vào Thượng Đế và vị công tố cho rằng đây là
một tâm hồn chai cứng mà ông chưa từng gặp.
Maria muốn vào
nhà giam thăm chàng, nhưng không được phép bởi vì họ không kết hôn. Lần đầu
tiên bị nhốt tù, Meursault cho rằng mình sẽ quen đi và chàng giết thời giờ
bằng giấc ngủ và suy nghĩ về quá khứ.
Khi ra trước
Tòa, Meursault rất ngạc nhiên khi thấy có quá đông người quen khi trước và
người ta đã mô tả các cách hành xử của chàng trong ngày đám tang của bà mẹ,
và chàng bị kết tội về những thứ bên ngoài vụ sát nhân và cũng là một tội
phạm trong trái tim (a criminal at heart). Vị công tố cho rằng Meursault
thiếu hẳn lòng ăn năn hối lỗi, không những có tội giết một người Ả Rập mà
còn "mắc tội theo đạo đức" (morally guilty) vào dịp đám tang của bà mẹ
chàng.
Sau khi bị kết
án, Meursault đã an ủi mình rằng "dù sao, đời cũng không đáng sống" (life
isn't worth living anyhow) và mọi người đều phải trực diện với cõi chết. Tại
nhà ngục, vị tuyên úy cố công thuyết phục Meursault về "sự công bằng của
Thượng Đế" và các niềm tin vào kiếp sau. Meursault tìm ra sự phi lý trong
các ý tưởng của vị tuyên úy. Sự nổi giận của chàng đối với vị tuyên úy đã
làm chàng mất hết mọi hy vọng ở kiếp sau. Chàng Meursault mong rằng vào ngày
chịu tử hình, sẽ có một đám đông người tới coi, họ sẽ chào đón chàng bằng
các lời hô "thù ghét" (with cries of hatred).
2/ Ý nghĩa
Cuốn tiểu
thuyết "Người Xa Lạ" đã trình bày ba giai đoạn mà Meursault gặp cảnh phi lý
(absurd), tức là sự vô nghĩa của đời sống con người.
(1) Vô thức (Unconsciousness). Vào
giai đoạn đầu, Meursault cho rằng đời người thì phi lý. Chàng đã trải qua
một cuộc đời thụ động, nhàm chán và tự động (automatic) làm các công việc
hàng ngày vừa máy móc, vừa không có hồn (mindless). Chàng đã không quan tâm
tới thế giới bên ngoài, bất cần các quy ước xã hội (society's conventions),
không có tham vọng, không có niềm tin tôn giáo, không xúc cảm với các người
khác, không hiểu rõ ý nghĩa của cuộc đời. Chàng chỉ làm theo các thỏa mãn
vật chất: ăn, uống rượu, tình dục, hút thuốc, ngủ, phơi nắng và ngắm cảnh
biển. Chung quanh chàng toàn là các điều phi lý: chịu đựng đau khổ, buồn
chán, bệnh tật, tuổi già, sự tàn ác, bạo lực và thù ghét. Cuộc đời của chàng
không có mục đích.
(2) Tỉnh thức (Awakening). Vào giai đoạn thứ hai, Meursault bắt đầu thấy đời
người là phi lý và vũ trụ còn chứa đựng nhiều bí ẩn mà con người muốn tìm
hiểu. Vụ giết người Ả Rập là một sự kiện phi lý, Meursault không có lý do
đặc biệt nào để giết hại người đó và chàng đã hành động do ánh sáng mặt trời
khiến cho chàng bị lóa mắt. Trong vụ xử án, chàng thấy rằng mình bị kết tội
vì các tính tình, các cách hành xử của mình, mà không phải vì tội phạm
(crime), và bởi vì Meursault không tin tưởng vào Thượng Đế, toà án đã dán
cho chàng cái nhãn "con quỷ thiếu đạo đức" (a moral monster) và kết tội
chết. Như vậy, hành động sát nhân của chàng đã không bị kết án mà chính vì
các thái độ và tư tưởng của chàng.
(3) Nổi loạn (Revolt). Cuối cùng, Meursault thấy rằng mọi sự việc ở đời đều
vô nghĩa (meaningless) và con người chỉ còn một cách chống lại sự phi lý của
đời người là nổi loạn. Khi phải nằm trong nhà giam, chàng đã suy nghĩ về ý
nghĩa của đời sống, đã thấy các sai trái (falseness) của các quy ước xã hội
và chàng cho rằng thứ "kiếp sau" (afterlife) mà vị tuyên úy đề cập, chỉ là
một niềm "hy vọng" (a hope) trong khi đời sống và cõi chết, không giống như
kiếp sau, là các hiện thực (certainties). Chàng biết rằng mọi sự việc ở đời
đều dẫn tới cõi chết (everything leads to death). Vì không còn hy vọng nào,
Meursault cho rằng chàng đang có một thứ hạnh phúc và nhận thức rằng chỉ có
thứ hạnh phúc dành cho con người, đó là sự đánh giá một cách ý thức (to
consciously appreciate) "cái tại nơi đây và cái hiện tại" (the here and now)
và phải nổi loạn chống lại cái "phi lý" (the absurd).
3/ Nghịch lý của Phi lý.
Nhiều nhà văn đã đề cập tới sự phi lý (the absurd) và mỗi người diễn tả ý
tưởng này thực sự ra sao cùng với tầm quan trọng của nó, chẳng hạn triết gia
Kierkegaard đã cắt nghĩa rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo
(religious truths) đã ngăn cản chúng ta tới gần Thượng Đế một cách thuần lý,
trong khi đó, Jean Paul Sartre nhận thức sự phi lý trong các kinh nghiệm cá
nhân (individual experiences).
Albert Camus không phải là người khởi xướng về quan niệm Phi Lý và ông không
hài lòng khi nhiều người cho rằng ông là một triết gia về phi lý (a
philosopher of the absurd). Để phân biệt Albert Camus với các triết gia phi
lý khác, khi nói về sự phi lý của Camus, người ta đề cập tới sự "nghịch lý
của phi lý" (the Paradox of the Absurd).
Các tư tưởng đầu tiên của Albert Camus về sự phi lý đã xuất hiện trong tác
phẩm "Mặt Trái và Mặt Phải" (1937) rồi chủ đề này lại được hoàn chỉnh hơn
trong tuyển tập thứ hai gồm các bài luận văn: Lễ Cưới (Noces – Nuptials,
1938). Trong các luận văn này, Albert Camus đã không định nghĩa hay cắt
nghĩa theo triết học sự phi lý (the Absurd) mà mô tả các kinh nghiệm về phi
lý. Năm 1942, tác phẩm "Người Xa Lạ" kể lại một người sống cuộc đời phi lý,
rồi cùng vào năm này, tác phẩm "Huyền Thoại của Sisyphus" (The Myth of
Sisyphus) là một luận văn về sự phi lý khi chàng Sisyphus bị Thượng Đế kết
tội suốt đời phải lăn một tảng đá lớn lên dốc. Thượng Đế đã không biết rằng
tảng đá sẽ lăn trở lại xuống dưới và nếu chàng Sisyphus chỉ làm một nửa công
việc, đây sẽ là cách chống lại sự phi lý.
Trong các bài luận văn, Albert Camus đã trình bày lý thuyết nhị nguyên
(dualism): sáng và tối, đời sống và cõi chết, hạnh phúc và đau khổ... Chúng
ta phải đối diện với sự thật là "hạnh phúc thì mong manh", trong khi chắc
chắn rằng chúng ta sẽ chết. Lý thuyết nhị nguyên là một nghịch lý (a
paradox). Chúng ta đánh giá cao đời sống và sự hiện hữu, trong khi đó lại
biết rõ rằng chúng ta sẽ chết và nếu vậy, các cố gắng của chúng ta sẽ trở
thành vô nghĩa (meaningless) và chúng ta không thể sống với nghịch lý sau
đây: "đời này rất quan trọng nhưng lại là vô nghĩa". Còn nếu như đời sống
không có ý nghĩa và vì thế không có giá trị, liệu chúng ta có nên tự sát
không?
Các tác phẩm của Albert Camus đã gây ra các tranh luận công cộng, nhưng ông
cũng đề cao các quan niệm như cộng tác (cooperation), hiệp lực (joint
effort) và đoàn kết (solidarity).
Jean Paul Sartre có một hệ thống triết học. Albert Camus thì không. Ông
không bao giờ viết về ý nghĩa siêu hình của sự tự do (freedom). Ông là một
người vô thần (an atheist), thường ác cảm nhưng cũng cởi mới đối với tôn
giáo.
Cả hai triết gia Jean Paul Sartre và Albert Camus đều quan tâm tới chính
trị, nhưng Jean Paul Sartre đặt chính trị lên trên đạo đức (morals) còn
Albert Camus chủ trương trái ngược, và đây là lý do đã có sự rạn nứt giữa
hai nhà tư tưởng. Jean Paul Sartre viết trong ấn bản tháng 12 năm 1945 của
Tạp Chí Paru: "Camus không phải là một nhà hiện sinh" (an existentialist),
triết học của ông ta là một triết học của sự phi lý", trong khi đó, Albert
Camus lại viết trong ấn bản tháng 9 năm 1945 của Tạp Chí Chiến Đấu (Combat)
như sau: "Tôi tin rằng các kết luận của trường phái Hiện Sinh thì sai"./.
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Văn Tuấn
|