Giống như nhạc cảm của ông, tài
nghệ âm nhạc của Segovia cũng tinh tế khác thường và
tài nghệ ấy càng góp phần tạo nên hình ảnh của
một con người thuộc về một thời đại khi mà nghệ sĩ
trông giống nghệ sĩ, ăn mặc như nghệ sĩ, và mong đợi
công chúng đối đãi với mình như là nghệ sĩ.
Segovia chào đời ngày 21/2/1893. Từ thuở ấu thơ ở quê
nhà Linares, miền nam Tây Ban Nha, Segovia đã mê đắm cây
đàn guitar bất chấp sự phản đối gay gắt của người
cha; ông ấy chỉ muốn con trai mình đi theo ngành luật.
Người cha kinh hãi khi thấy cậu bé đã si mê cây đàn
tuy là nhạc cụ dân tộc nhưng vốn bị xem thường ấy.
Ông cho Segovia học thử piano và cello nhưng các nhạc cụ
quý phái kia không thể nào buộc cậu bé từ bỏ được
mối tình với cây đàn guitar. Mối tình ấy đã nhen nhúm
ngay từ lúc cậu bé được nghe lần đầu tiên trong đời
qua âm điệu của những nhạc công flamenco du mục. Người
cha đã đập vỡ đến cây đàn guitar thứ ba của Segovia
rồi đành bất lực. Ông không làm sao lôi kéo được
cậu con trai thoát khỏi ma lực của thứ nhạc cụ hạ
cấp chỉ dành cho dân di-gan múa may trong những hầm rượu
tồi tàn. Rốt cuộc ông đành phải cho phép Segovia theo
học danh cầm guitar Miguel Llobet một thời gian ngắn. Tuy
nhiên, Segovia chủ yếu vẫn tự mình khám phá lấy
những kỹ thuật chơi đàn. Segovia được gia đình gửi
đi học nhạc ở Nhạc Viện Granada nhưng chỉ một thời
gian cậu bé cũng bị "mời" ra khỏi trường. Không
có chỗ cho cây đàn guitar trong thế giới âm nhạc cao quý
thời đó! Thế là cậu bé bắt đầu cuộc hành trình cô
độc đi tìm lại quá khứ khả kính của cây đàn yêu
dấu.
Segovia nhanh chóng phát triển được một kỹ thuật thượng
thừa và một tri thức âm nhạc sắc sảo. Mới 16 tuổi,
Segovia đã thực hiện thành công cuộc trình diễn đầu
tiên và tên tuổi của cậu bé liền lan truyền khắp đất
nước Tây Ban Nha. Sáu năm sau, Segovia làm náo động thế
giới âm nhạc Paris khi chàng trình tấu với cây đàn
guitar của mình. Thành công đó dẫn dắt Segovia làm một
chuyến lưu diễn khắp Nam Mỹ.
Tuy nhiên, mãi đến lần trình diễn chính thức tại
Paris năm 1924, trước sự tham dự và xét nét của những
nhạc sĩ và văn nghệ sĩ lỗi lạc, thì Segovia mới
thật sự nổi tiếng khắp châu Âu. Vào thời ấy, ít người
được nghe âm nhạc thần thánh của Johann Sebastian Bach
chơi bằng guitar hay thậm chí nghĩ đến một chuyện lạ
lùng như vậy. Những nhạc phẩm nguyên thủy được Bach
viết cho cây đàn violon quý tộc khi được Segovia
chuyển soạn lại cho guitar và trình diễn đã bộc lộ
không những thiên tài của chàng trai "phạm thượng"
kia mà còn cho thấy tiềm năng của loại nhạc cụ sáu dây
"đầu đường xó chợ" này.
New York lần đầu tiên nghe thấy tiếng đàn Segovia năm
1928 trong một buổi trình diễn ở thính đường Tòa
Thị Chính. Các nhà phê bình sửng sốt: dưới những ngón
tay thần của Segovia, sáu dây đàn guitar phô bày những
âm sắc hết sức đa dạng và cực kỳ biểu cảm. Các
buổi trình diễn sau đó của Segovia ở New York và các thành
phố khác trên đất Mỹ phải chuyển sang những thính
đường lớn hơn để đủ chỗ chứa hết số lượng thính
giả ngày càng đông.
Cái tên Andrés Segovia đã ghi vào lịch sử âm nhạc
thế giới. Ông tiếp tục đeo đuổi sự nghiệp trình
diễn và ghi âm thu đĩa của mình với sự trường thọ
đáng kinh ngạc bất kể thị lực đã suy giảm vì phải
giải phẫu võng mạc vào cuối thập niên 1960. Những
nhạc sĩ có sức làm việc bền bỉ và được công chúng
yêu mến lâu dài như Segovia chỉ đếm trên đầu ngón
tay.
Nếu không có sự gan lì trong bản chất thì nhà quý
tộc với tính khí và mỹ cảm phức tạp ấy đã không
trở thành một nghệ sĩ biểu diễn lừng danh trong suốt
78 năm trời. Rất may là từ trẻ ông đã hình thành và
không bao giờ đánh mất niềm tin đến mức cuồng tín vào
tài năng và sứ mệnh của mình. Chính cái tôi ngạo
nghễ của Segovia đã bảo vệ Segovia – một yếu tố không
thể thiếu cho sự sống còn của bất kỳ người trình
diễn nào. Ngay cả những guitarist đồng nghiệp khá nổi
tiếng của Segovia cũng khó chịu khi biết rằng những ai
không trung thành với nghệ sĩ bậc thầy ấy, hay không
tuân theo phương pháp hoặc ý nhạc của ông đều có
thể bị thất sủng hay bị phủ nhận hoàn toàn.
Julian Bream, một trong những học trò cưng của Segovia, đã
bị thất sủng bởi vì Bream khăng khăng chơi cả đàn
lute lẫn đàn guitar. Trước ý tưởng ngoại đạo ấy,
bậc thầy phán: “Một tôi không thể thờ hai chúa.”
Segovia cũng không đánh giá cao những phiêu lưu trong lãnh
vực nhạc pop của một môn đệ người Anh khác, John
Williams và đặc biệt là của một số guitarist trẻ
trong thập niên 1960 và 1970 khi họ bắt buộc phải chọn
phe trong vấn đề này.
Bất kỳ ai tự gọi mình là guitarist nhưng lại chọn cây
đàn điện hình thù quái dị với dây nhợ lòng thòng như
cuống rốn chưa lìa đều lãnh trọn sự khinh miệt của
giáo chủ Segovia, bất kể việc một Beatles đã từng tuyên
bố rằng Segovia là “cha của tất cả chúng ta.”
Segovia bất cần sự tán thưởng của công chúng mà lại
đòi hỏi sự chung thủy với truyền thống cổ điển
– cái truyền thống ấy trong nhiều phương diện chính
là một trong những yếu tố tạo dựng ra và duy trì cái
tên Segovia
Cái tôi quá lớn của
Segovia có thể khiến ông phải chọn những vị thế cố
chấp: người ta cho rằng ông từ chối trình diễn hay
ghi âm “Concierto de Aranjuez” của Rodrigo – một tác
phẩm phổ thông nhất trong vốn tiết mục trình tấu ghi
âm cho đàn guitar – chỉ vì nhà soạn nhạc mù người Tây
Ban Nha ấy đã đề tặng bản concerto năm 1939 cho Sainz de
la Maza, một guitarist khác. Để biện hộ cho Segovia,
phải nói rằng bản thân ông không ưa chuộng mấy thể
loại nhạc hợp tấu (ensemble), mặc dầu thỉnh thoảng
ông có chơi các concerto của Ponce và Villa-Lobos, cũng như
“Fantasia para un gentil hombre” của Rodrigo – một sự kính
nể khá muộn màng của Rodrigo khi viết tặng cho chính
Segovia bản concerto này vào năm 1954. Trong vai trò người
biểu diễn, ông vừa là nhung lụa vừa là sắt thép,
một sự kết hợp mà cả ngàn môn đệ lẫn những kẻ
bắt chước ông trên khắp thế giới không thể sao chép
được. Trong tất cả các cầm thủ tuyệt kỷ náo loạn
của thế giới guitar ngày nay, không có âm thanh nào lại
vừa tự nhiên lại vừa được nắn nót tinh vi như là
tiếng đàn Segovia, đặc biệt là trong thời kỳ sung mãn
nhất của ông. Không ai có thể chơi “Leyenda” của
Albeniz sánh được Segovia với những cảm xúc dữ dội
bị kềm nén, những dòng âm thanh trào dâng và chùng
lắng, những màu sắc đa dạng của thanh âm, và với
bầu không khí nhạc Ấn Tượng triền miên.
Vào thời mà các nhà âm nhạc học lẫn người biểu
diễn đều coi trọng cách diễn tấu trung thực theo tính
chất của thời đại âm nhạc, cách Segovia thể hiện
“Chaconne” của Bach lại nghe rất riêng tư đến thảng
thốt và đầy hơi hướm xa vời của chủ nghĩa Lãng
Mạn, một cách diễn tấu có thể nói là lỗi thời
trong một số phương diện. Thế nhưng những ai có khả
năng cảm nhận được nhịp đập của cuộc sống ẩn
giấu trong những nốt ký âm vẫn tin rằng dẫu Bach của
thời Baroque có sống lại để nghe Segovia chơi
“Chaconne” thì Bach cũng phải gật đầu.
Những ngón tay, sự rọi phóng hiển hiện của cái thiên
tài khuất lấp, là mối quan tâm không ngừng của Segovia
suốt cả tuổi già lẫn những năm tháng son trẻ khi ông
tự phát triển một kỹ thuật guitar riêng biệt cho mình,
dựa theo những gì biết được từ các bậc tiền bối
như Fernando Sor, Dioniso Aguado, Napoleon Coste và Francisco Tárrega.
Theo truyền thống, người ta thường chơi đàn với móng
của bàn tay phải (phương pháp Aguado) hay bằng đầu
thịt của ngón tay (theo kiểu Sor và Tárrega). Segovia học
hỏi và kết hợp cả hai kỹ thuật này; một kỹ thuật
khiến cho cách trình tấu của ông đầy những âm sắc
muôn màu trước đó có lẽ chưa từng thấy ở cây đàn
guitar. Ông hợp tác chặt chẽ với những nhà làm đàn
như Ramirez và Hauser để cải tiến cấu trúc của cây đàn
guitar sao cho âm thanh nhỏ nhẹ bẩm sinh của nhạc cụ
ấy có thể vang xa khắp các hội trường ngày càng lớn
với thính giả ngày càng đông khi danh tiếng Segovia ngày
càng lừng lẫy. Sự phóng âm ấy rất quan trọng nhất là
sau Thế Chiến thứ II, khi giới phê bình và thính giả
đã quá quen thuộc với âm lượng áp đảo của những
danh cầm piano bấy giờ.
Bản thân Segovia không bao giờ nhượng bộ với âm thanh
khuếch đại qua ampli của thời đại mới. Ông đã nghĩ
ra nhiều cách lịch sự để làm thính giả im lặng trước
khi ông bắt đầu chơi đàn. Những cách thức ấy đã
trở thành một biểu tượng mang tên “tiếng suỵt
Segovia”. Vào những mùa mà những con vi-rút bí ẩn có
thể khiến đôi ba thính giả co giật vì những tràng ho
bùng nổ, Segovia thường dừng giữa hai bài nhạc và đưa
chiếc khăn tay lên miệng như một lời nhắc nhở nhẹ
nhàng. Nghe Segovia trình diễn đòi hỏi một sự nhạy
cảm vượt ngoài khả năng tai nghe đơn thuần. Óc tưởng
tượng và sự cảm thông là điều bắt buộc bởi vì như
Stravinsky đã nói từ lâu: “Âm thanh của cây đàn guitar
không những nhỏ nhẹ mà còn xa vắng.”
Dù không phải lúc nào cũng nghe rõ tiếng đàn Segovia,
sự cách tân kỹ thuật thấy rõ nhất của ông ra đời
sau Thế Chiến thứ II liên quan đến việc chấp nhận và
tán thành sử dụng dây đàn nylon – một điều khiến
guitarist khắp thế giới mãi mãi ghi ơn. Tất cả đều
đồng ý rằng với dây đàn nylon, âm sắc hay hơn và
nhất quán hơn trên cả sáu dây đàn, và sự tiện lợi
do dây nylon mang lại là vô bờ bến.
Dây đàn làm bằng gân thú của thời xưa không những
dễ bị lạc giọng hay đứt ngang vào những lúc bất
ngờ nhất mà còn làm cho đầu đàn guitar xoắn vặn
rối rắm mất thẩm mỹ. Với việc giáo dục là một thành
phần trong di sản vô giá của Segovia, ông được công
nhận như một trong những người thầy vĩ đại nhất
thế kỷ này. Thế nhưng khác hẳn với hầu hết mọi đồng
nghiệp của mình trong số những người trình tấu nhạc
cụ danh tiếng nhất của thế kỷ, bản thân Segovia lại
không được đào tạo chính quy. Trước Segovia đã có
sẵn một truyền thống guitar cổ điển với những danh
cầm tuyệt kỷ như Coste, Aguado và Miguel Llobet, nhưng
truyền thống ấy đã bị xem như một thứ âm nhạc
nghiệp dư hay chìm vào quên lãng, ngay cả ở Tây Ban Nha.
Những danh cầm kiêm sáng tác gia như Sor hay Tárrega lừng
lẫy một thời ít được giới âm nhạc chuyên nghiệp
biết đến, và đối với giới này thì ngay cả những công
phu của Paganini dành cho cây đàn guitar cũng chỉ là
những huyền thoại mơ hồ.
Thực tế mà nói, chính âm thanh của tiếng đàn guitar
flamenco được dân gypsy du mục gảy móc thô bạo đã mê
hoặc Segovia ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ; một sự mê
hoặc tiền định. Segovia và cây đàn guitar như hai người
tình của số phận và tiếng sét ái tình duy nhất thuở
ban đầu đối với Segovia là những âm thanh gay gắt inh
tai. Thế là Segovia bắt đầu mày mò tự học, và trở
thành người tình chung thủy với loại nhạc cụ đáng
hoài nghi không hề có vốn nhạc trình diễn và chủ
yếu chỉ dùng để đệm cho những bài ca dân gian hay vũ
điệu flamenco.
Những danh thủ tiền bối, như Coste, đã từng trình
tấu Bach trên cây đàn guitar; nhưng chỉ có Segovia mới có
thể làm rúng động cả Paris với sự tinh thông Johann
Sebastian trong buổi công diễn đầu tiên tại thủ đô Pháp
năm 1924. Lúc đó, ông đã tự tạo cho chính mình và
những tín đồ tương lai một vốn nhạc trình tấu, mở
rộng nỗ lực chuyển soạn của mình vượt xa hơn nhạc
của Bach để tìm tới âm nhạc của những tiền bối
khả kính xa xưa hơn như Scarlatti, Handel và Purcell, đồng
thời cũng dò tìm trong kho tàng âm nhạc của những danh
cầm đàn lute cổ xưa như Sylvius Leopold Weiss và Dowland.
Ông còn “xâm lược” (những kẻ xấu miệng đã từng
bảo như thế) sang cả vốn nhạc piano linh thiêng –
Chopin, Brahms, Albeníz, Granados, Debussy and Scriabin. Các
nhạc sĩ nổi danh khác như Castelnuovo-Tedesco, Tansman,
Rodrigo, Ponce, Lauro, và Moreno Torroba cũng đã sáng tác hàng
chục tác phẩm cho Segovia hay cho các môn đệ của ông.
Hàng hàng lớp lớp các môn đệ cũng như đối thủ,
những kẻ đã được công chúng chấp nhận nhờ thành công
của Segovia, đã chiếm lĩnh những đỉnh cao mà Segovia đã
giành được, tràn ngập các phòng hòa nhạc và phòng ghi
âm. Ttrong số đó không chỉ có Julian Bream và John
Williams mà còn có Rey de la Torre, Eliot Fisk, Laurindo Almeida,
Siefried Behrend, Christopher Parkening, Kazuhito Yamashita, David
Starobin, Frederic Hand, Sharon Isbin, Liona Boyd, Konrad Ragossnig,
Alirio Diaz, Pepe và Angel Romero, Narciso Yepes, Ida Presti,
Alexandre Lagoya và Leo Brouwer, vv. Danh sách ấy còn có thể
kéo dài hơn nữa. Vị chỉ huy già đã ngã xuống nhưng
ngọn cờ của ông vẫn tung bay. Đoàn quân của ông xông
tới củng cố những đồn lũy mà ông đã khó khăn mới
chiếm giữ được và không ngừng chiêu mộ những tân
binh mới vào hàng ngũ. Guitar cổ điển trở thành một
bằng cấp tiêu chuẩn ở nhiều đại học và nhạc
viện, và đây đó đã xuất hiện những nhà phê bình âm
nhạc có hiểu biết về cây đàn guitar và kho tàng âm
nhạc của nó. Những nhà phê bình này có lẽ chính là
đài tưởng niệm ghê gớm nhất của Segovia, một
"giống loài âm nhạc" được khai sinh và tồn
tại hoàn toàn nhờ công sức của một mình ông.
Suốt một cuộc đời dài đầy những thành tựu mang tên
mình, Segovia chắc chắn phải hiểu rõ giá trị của mình
hơn bất kỳ nhà phê bình nào. Kẻ tự học kiêu hãnh này
thích thú bông đùa về lợi thế của việc không có
thầy: “Cho tới hôm nay, thầy và trò chưa hề có trận
cãi nhau nghiêm trọng nào.” Bằng cách nào Segovia có
được đôi cánh mạnh mẽ đưa ông bay bổng tới những
tầng trời cao nhất của nghệ thuật? Điều đó mãi mãi
là một bí mật. Ngay khi còn sống, ông đã chiếm lĩnh
một vị trí trong ngôi đền của những danh cầm thế
kỷ, bên cạnh Rubinstein, Casals, Toscanini, Heifetz và
Horowitz. Giống như các danh cầm kia, ông quyến rũ được
công chúng là nhờ ghi âm thu đĩa. Sự nghiệp nửa thế
kỷ ghi âm của Segovia bắt đầu tại London ngày 2 tháng
Năm 1927 và kết thúc với lần thu tại Madrid ngày 23 tháng
Sáu 1977. Vào những năm cuối đời, Segovia vẫn còn
nhận được tiền tác quyền của đĩa nhạc ghi âm đầu
tiên dạo ấy. Segovia đã ghi âm hơn 30 đĩa nhạc và các
đĩa ấy đã được tái bản liên tục cho tới bây
giờ.
Trong những thập niên cuối cùng, Segovia tổ chức nhiều
lớp chuyên tu (master class) ở Santiago de Compostella, Tây
Ban Nha cũng như ở nhiều nhạc viện trên khắp thế
giới. Ba tháng trước khi từ trần, Segovia vẫn còn
giảng dạy trong những khóa chuyên tu như vậy ở Nhạc
Viện Manhatten và thính đường Carnegie Hall, Hoa Kỳ. Ông
cũng từng giảng dạy nhiều năm ở Siena, Italia. Được
thụ giáo Andrés Segovia là một nhãn hiệu công nhận
quốc tế đối với nhiều guitarist thế hệ sau như
Julian Bream, John Williams, Eliot Fisk và Christopher Parkening.
Tôi còn cả thiên thu để an nghỉ
Cuộc hôn nhân đầu tiên
của Segovia kết thúc bằng một quyết định ly dị năm
1951. Mười năm sau, ông thành hôn với người vợ kế
Emilia del Corral. Khi ấy ông đã 68 tuổi trong khi Emilia
chỉ mới ngoài 20. Emilia từng là môn đệ guitar của ông
suốt 12 năm trời. Cậu con trai của họ, Carlos Andrés, chào
đời khi Segovia đã 77 tuổi. Cậu bé này cách biệt hai
người con đầu của Segovia đến nửa thế kỷ!
Segovia có lần bông đùa với một nhà báo trong một
cuộc phỏng vấn: "Tôi nổi tiếng là một người
cha hơn là một nhà nghệ sĩ!" Sức khỏe dần suy
giảm theo thời gian, Segovia không còn duy trì được
nhịp độ căng thẳng của 100 lần biểu diễn một năm
như trước. Ông lui về nghỉ ngơi trong một ngôi nhà trên
đỉnh đồi ở Granada quê hương. Dù vậy, ông vẫn
tiếp tục duy trì khoảng 10 buổi trình diễn mỗi mùa và
dạy các lớp chuyên tu gần như đến tận cùng cuộc đời
mình – một cuộc đời với tình yêu bất diệt dành
cho cây đàn guitar.
Nhìn lại lịch sử âm nhạc, thật ngạc nhiên khi thấy
rằng chỉ có ít nhạc sĩ có thể làm thay đổi đáng
kể lịch sử của loại nhạc cụ họ chọn lựa. Listz,
Paganini và Casals đã làm thay đổi lịch sử của piano,
violon và cello, chủ yếu qua những cải tiến cách mạng
về mặt kỹ thuật. Wanda Landowska đã làm thay đổi số
phận của cây đàn harp. Trong danh sách cực kỳ ngắn
ấy, ta có thể thêm vào cái tên Andrés Segovia. Thế
giới âm nhạc đã từ lâu công nhận rằng Segovia không
những đã hoàn thiện kỹ thuật của một vài người tiên
phong ở thế kỷ 19 mà còn vượt xa hơn cả các bậc
tiền bối ấy trong tài soạn nhạc nữa.
Những gì Segovia đạt được trong sự nghiệp biểu
diễn chính là sự tái sinh – một số người dám nói là
sự khai sinh – của cây đàn guitar như một nhạc cụ trình
tấu nghiêm túc. Cả cuộc đời ông là một cuộc thánh
chiến để cứu vớt chiếc đàn sáu dây này thoát khỏi
cảnh thấp hèn của một nhạc cụ “du đãng”.
Giờ đây, khi thế kỷ 21 bắt đầu ló dạng, sứ mệnh
của nhà tiên tri đã hoàn thành. Cây đàn guitar cổ điển
– sở dĩ được mang cái tên này là do cấu trúc
truyền thống và phương pháp chơi đàn chứ không phải
vì vốn nhạc của nó – đã có chỗ đứng đàng hoàng
trên sàn diễn bên cạnh những nhạc cụ độc tấu nổi
bật nhất: violon, piano, cello.
Khi Segovia bước vào những năm tháng cuối đời, những
buổi trình diễn của ông vẫn liên tục đầy ắp thính
giả. Segovia là một minh chứng cho sự trường thọ và
sung mãn. Ông là một trong số rất ít những nhạc sĩ
vẫn còn trình diễn ở tuổi 80 và 90. Lúc cuối đời,
khi mắt ông bị cườm và thị giác đã mờ phải dùng
đôi mắt kính dày cộm mới thấy rõ, một người bạn
quan tâm hỏi ông sao vẫn tiếp tục làm việc quá sức
ở cái tuổi già lão này. Ông đáp – một câu trả
lời đối nghịch tiêu biểu Segovia:
“Tôi còn cả thiên thu để an nghỉ.”
TRẦN ĐỨC TÀI dịch
(theo Donald Henaban, “The Segovia Legacy”)
http://www.hanoicorner.com
|