1/ Trường
phái Cổ Điển và trường phái Lãng
Mạn.
Các thời kỳ lịch sử của bộ môn
Aâm Nhạc được phân biệt bằng các
trường phái hay giai đoạn trong đó
một đường hướng diễn tả
âm thanh đã được thịnh hành. Các nhà
nghiên cứu đã dùng các danh từ như
"cổ điển" và "lãng mạn"
để phân biệt về tác giả, tác
phẩm và thời kỳ. Trong các năm từ
1770 tới 1800 và đôi khi tới tận 1830, nét
nhạc của các nhạc sĩ lừng danh như
Hayden, Mozart, Beethoven đã mang nhạc vẻ
"cổ điển". Danh từ này hàm
chứa các ý nghĩa về sự toàn hảo, tiêu
chuẩn, dùng làm mẫu mực cho các sáng tác âm
nhạc về sau. Việc phân loại cũng
đã được căn cứ vào số lượng
nhạc âm (musical sound) bị giới hạn, vào cách
hòa âm căn bản, do cách xử dụng nhịp
điệu (rhythm) và nhạc thức (form) và do
cả cách truyền cảm đi từ nhạc sĩ
sáng tác qua nhạc sĩ trình diễn tới thính
giả.
Các nhạc sĩ sáng tác đã thí nghiệm, làm
biến đổi và làm phát triển cách
diễn tả âm nhạc từ các nguyên tắc căn
bản. Như thế, cách nhận thức về
mỹ thuật nói chung và về âm nhạc nói riêng
đã thay đổi theo thời gian và trường
phái "lãng mạn" dần dần xuất
hiện.
Vào đầu thế kỷ 19, tinh thần lãng
mạn đã thể hiện qua cách nhận
thức về vẻ đẹp của các "khu
vườn Anh" (English garden), tại nơi này
không còn cách trồng tỉa cân đối, cách
xếp đặt công phu nữa. Nhiều người
đã bắt đầu đánh giá cao loại
phong cảnh tự nhiên, mang vẻ hoang dã, phóng
khoáng. Về kiến trúc, đường nét
cổ điển với cách đối xứng và
phức tạp đã nhường chỗ cho tính
bất quy tắc và sự đổi mới
về chi tiết. Cách thưởng thức
nghệ thuật đã thay đổi từ năm
1764 với sự xuất hiện của lối
kiến trúc Gothic mới.
Cách nhận thức mới về nghệ
thuật đã làm nẩy sinh ra một thế
giới xa xôi với thế giới "quen
thuộc và mỗi ngày", và trường phái lãng
mạn đã khác biệt với trường phái
cổ điển về sự "xa lạ và xa
vời" (strangeness and remoteness). Do đó Walter
Pater đã định nghĩa trường phái lãng
mạn là "sự thêm vào vẻ đẹp
chất liệu xa lạ" (the addition of strangeness
to beauty).
Một nét vẻ đặc biệt khác của trường
phái lãng mạn (romanticism) là tính không giới
hạn (boundlessness). Nghệ thuật lãng mạn lùi
về quá khứ và hướng cả về tương
lai, trải rộng tầm vóc phủ lên thế
giới và lan ra vũ trụ. Trong khi các quy
tắc cổ điển chú trọng đến tính
trật tự, sự cân bằng về kiểm soát
và sự hoàn hảo trong các giới hạn
được hiểu rõ, thì trường phái lãng
mạn lại ca ngợi tính tự do, sự say
đắm, các chuyển động để theo
đuổi những gì đạt tới
được và không bao giờ đạt
tới được. Nghệ thuật lãng
mạn bị ám ảnh bởi tinh thần mong
đợi, ước vọng về một hoàn
thành rất xa vời.
Trong các bộ môn nghệ thuật, Aâm Nhạc là
thứ dễ diễn tả, dễ bộc lộ
nhất. Nhờ âm thanh và nhịp điệu, âm
nhạc đã mô tả các cảm xúc, ấn tượng,
làm lộ ra những xúc động nội tâm. Aâm
Nhạc đã dùng thứ ngôn ngữ riêng để
nói lên thứ hình ảnh hiện thân của
thế giới cũng như các cảm xúc trong
cuộc đời của mọi người. Aâm
nhạc được định nghĩa là
một loại ngôn ngữ không phải là lời
nói thông thường. Các nhạc cụ vì
vậy đã trở nên một phương
tiện, một thứ xe chuyên chở tư tưởng
và tình cảm. Các nhạc sĩ lãng mạn đã
khéo léo phối hợp âm nhạc với lời nói,
thành lời ca, hòa vào tiếng đàn như trong
thể nhạc Lied, một loại bài hát đã
được sáng tác thành công vào thế kỷ
19 bởi Schubert, Schumann, Brahms và Hugo Wolf, hay trong
loại nhạc kịch trường (music drama)
của Wagner. Ngoài ra còn có loại nhạc chương
trình (program music) phối hợp với thơ,
với cách mô tả, cách tường thuật, cách
bắt chước các âm thanh tự nhiên và các
âm thanh chuyển động, đã dùng tới các
hình ảnh tưởng tượng và được
diễn tả ra bằng âm thanh.
Nhạc chương trình của thế kỷ 19
khởi đầu bằng bản "Giao Hưởng
Đồng Quê" (Pastoral Symphony) của Beethoven,
kéo dài tới giữa thế kỷ với các
nhạc sĩ Mendelssohn, Schumann, Berlioz, Liszt rồi
với các nhạc sĩ đại diện
của cuối thế kỷ là Debussy và Richard
Strauss. Các nhạc sĩ của thời đại
này đã cố gắng bằng cách dùng âm thanh,
liên kết một câu chuyện, một bài thơ,
một hoạt cảnh với một bản
nhạc lãng mạn.
Thế kỷ 19 cũng gặp sự chuyển
tiếp về thính giả và sự bảo
trợ âm nhạc. Loại thính giả đồng
nhất, thường có văn hóa cao và số lượng
hạn hẹp như giới quý tộc, đã
được thay thế bằng giới trung lưu
đông đảo hơn nhưng không đồng
nhất, không có trình độ cao về thưởng
thức âm nhạc. Các bảo trợ về âm
nhạc của các hầu tước, bá tước,
các cung đình cũng bị nhường chỗ
cho các hội hòa nhạc (concert societies) và các
đại hội âm nhạc (musical festivals).
Nhạc sĩ sáng tác vào thế kỷ 19 đã
đứng trước một sân khấu
rộng lớn hơn, phải cố gắng làm
sao cho nhạc phẩm của mình được
nhiều người nghe và hiểu. Sự tương
phản về tính phổ thông của thời
đại này đối với thời đại
trước đã được thể hiện
qua các sáng tạo đồ sộ của Meyerbeer,
Berlioz, Wagner, Strauss hay Mahler, hay qua các bản
nhạc dương cầm ngắn của Schubert,
Mendelssohn và Chopin.
Trường phái lãng mạn của thế kỷ
19 còn có một nét đặc thù, đó là
sự khác biệt giữa các nhạc sĩ chuyên
nghiệp và các nhạc sĩ tài tử. Các
nhạc sĩ độc tấu với tài
nghệ xuất sắc đã xuất hiện như
Paganini về vĩ cầm và Liszt về dương
cầm. Đã tăng thêm các tiêu chuẩn chuyên
nghiệp khiến cho sang thế kỷ 20, vai trò
của nhạc trưởng trở nên rất quan
trọng và nhạc trưởng đôi khi còn
được gọi là "nhà độc tài
của dàn nhạc".
Trường phái cổ điển và trường
phái lãng mạn có thể được coi là hai
cực của nền nghệ thuật. Tinh
thần cổ điển đi tìm kiếm sự
trật tự, sự cân đối, sự trong sáng
của đề tài trong khi tinh thần lãng
mạn lại đặt nặng sự xa lạ,
tính ngạc nhiên và tình cảm ngây ngất
(ecstasy), nhìn cuộc đời với tính chủ
quan, khác hẳn yếu tố khách quan của tinh
thần cổ điển. Chính vì thế nhà
triết học người Đức Friedrich
Nietzsche trong các bài viết về nghệ
thuật, đã so sánh hai tinh thần cổ điển
và lãng mạn bằng hình ảnh của Apollo,
vị thần Hy Lạp của ánh sáng và đo lường,
tương phản với Dionysus, vị thần
của lòng đam mê và tính say sưa. Cả hai
đặc tính trái ngược cổ điển
và lãng mạn đã là hai xung lực căn
bản của bản chất con người.
Các cải tiến kỹ thuật vào thế
kỷ 19 đã làm phát minh ra các nhạc cụ
mới, chẳng hạn như các kèn saxophone và
tuba. Việc thêm các "van" (valves) vào loại
kèn đồng (brass instruments) đã cho phép kèn tù
và (horn) thổi được các giai điệu
của Wagner và Tchaikovsky. Đàn dương
cầm cũng nhờ các tiến bộ khoa
học mà có một khung căng dây đàn (frame)
đúc bằng gang, các dây đàn cứng cáp hơn
và to dài hơn nên đã phát ra các âm thanh
lộng lẫy hơn, sâu đậm hơn.
Nhờ cây đàn dương cầm với các âm
thanh từ nhẹ (soft) tới mạnh (forte), Liszt
đã trình tấu các bản nhạc thuộc trường
phái lãng mạn khác với các bản sônát
của Mozart vào thế kỷ trước.
Trong thế kỷ trước, nhạc sĩ sáng
tác cũng là nhạc sĩ trình diễn. Mozart và
Beethoven đã trình bày các concerto của chính mình
giống như Franz Liszt diễn tấu nhạc
phẩm "Tưởng Khúc Hungari" (Hungarian
Rhapsodie) hay Niccolo Paganini với các giai điệu
vĩ cầm mang âm sắc quái dị. Sau đó, các
nhạc sĩ trình diễn tài ba dần dần
diễn tấu các nhạc phẩm của
nhiều nhạc sĩ sáng tác khác.
Trong thời kỳ lãng mạn của thế
kỷ 19, đàn dương cầm đã đóng
một vai trò quan trọng trong bộ môn âm
nhạc. Tại châu Aâu và châu Mỹ trong thế
kỷ này, cây đàn dương cầm trở nên
nhạc cụ chính trong gia đình, đã hấp
dẫn các nhạc sĩ tài tử vì khả năng
của đàn có thể diễn tả vừa giai
điệu, vừa hòa âm, khác với các loại
nhạc cụ dây và gió.
Các bậc thầy về các nhạc bản dương
cầm của thế kỷ 19 gồm Schubert, Chopin
và Liszt, Mendelssohn, Schumann và Brahms… những
nhạc sĩ đại tài này đã khai thác các
nguồn vô tận của đàn dương
cầm và diễn tả một cách xúc tích
vẻ lãng mạn và kịch tính của các
nhạc phẩm trữ tình.
2/ Thời niên thiếu
của Frederic F. Chopin.
Frederic F. Chopin được gọi là "nhà thi
sĩ" của cây đàn dương cầm.
Nghệ thuật âm nhạc của Chopin là trái tim
của thời kỳ âm nhạc lãng mạn và
nhờ Chopin, đàn dương cầm đã
đạt được thời kỳ vàng son
rực rỡ.
Frederic Chopin sinh ngày 22 tháng 2 năm 1810 tại
Zelazowa Wola gần Warsaw, nước Ba Lan, là con
thứ hai trong bốn người của ông
Nicholas Chopin, một người Pháp đã qua Ba
Lan để dạy tiếng Pháp cho các gia đình
quyền quý. Mẹ của Chopin là người Ba
Lan, một người có giáo dục cao, thuộc
gia đình quý tộc Skarbek nhưng đã bị
sa sút và ông Nicholas đã là phụ giáo cho gia
đình này. Cậu bé Frederic đã tiếp thu
được một nền giáo dục căn
bản tốt đẹp và đã được
học âm nhạc với nhạc sĩ Joseph Elsner,
vị sáng lập và cũng là giám đốc
của Nhạc Viện Warsaw mới được
thành lập. Năm lên 7 tuổi, Frederic đã sáng
tác nhạc và nhạc bản đầu tiên đó
đã được trình diễn nơi công
cộng. Năm sau, Frederic cũng đã biểu
diễn âm nhạc trước công chúng bằng
bản Concerto của Adalbert Gyrowetz.
Năm 1826, Frederic Chopin là sinh viên chính thức
của Nhạc Viện Warsaw nhờ đó đã
học hỏi được căn bản về
nhạc lý, hòa âm và đối điểm. Chopin
cũng làm quen với các nhạc phẩm của
nhiều nhạc sĩ rồi từ đó đã
sáng tác ra các biến khúc (variations) từ
những ảnh hưởng của nhạc
bản Don Giovanni của Wolfgang A. Mozart.
Nhạc phong của Chopin từ lúc đầu
đã mang âm vẻ đặc biệt, khiến
cho vị giáo sư âm nhạc là ông Elsner không
muốn ép buộc môn đệ đi vào khuôn
mẫu cổ điển và đã cho phép chàng
nhạc sĩ trẻ tuổi này hoàn toàn tự do
để phát triển những nét nhạc đặc
sắc cá nhân.
Chopin là một nhạc sĩ trẻ tuổi tài
hoa và cũng sớm đa tình. Trong các năm còn
là sinh viên âm nhạc, Chopin đã say đắm cô
ca sĩ trẻ trung tên là Constantia Gladkowska, người
đã gây nên trong nội tâm của chàng nhạc
sĩ "nước mắt và tiếng thở dài",
thứ lãng mạn phổ thông của thế
kỷ 19. Chính trong hoàn cảnh đam mê này,
Chophin vào tuổi 19 đã viết nên phần
Adagio của Concerto cung Fa thứ vì nghĩ tới
nàng ca sĩ trẻ đẹp đó.
Năm 1828, nhạc sĩ sáng tác kiêm dương
cầm tên là Johan Nepomuk Hummel, người thành
phố Vienna, đã viếng thăm Warsaw và đã
trình diễn các nhạc kịch kiểu Ý (Italian
opera). Chopin nhờ thế làm quen được
với nền âm nhạc của thế giới tây
phương thời bấy giờ. Sau đó,
Frederic Chopin đã tới thăm thành phố
Berlin, được nghe các nhạc phẩm
của George Frederick Handel và của Felix Mendelssohn
rồi lúc trở về Warsaw, lại được
nghe Niccolo Paganini trình diễn âm nhạc. Tới lúc
này Chopin cảm thấy rất cần phải ra
khỏi nước Ba Lan. Cha của chàng xin chính
phủ trợ cấp cho việc du học nhưng
lời yêu cầu bị khước từ, vì
thế Chopin đã tự túc ra đi, tới thành
phố Vienna để dàn xếp việc xuất
bản một số nhạc phẩm cũng như
trình diễn âm nhạc tại vài địa
điểm.
Ngày 11-8-1829 tại rạp hát Karntnerthor, Chopin đã
biểu diễn âm nhạc trước công chúng
rồi lúc trở về Warsaw năm sau, lại ra
mắt thính giả bằng nhiều nhạc
phẩm có tên là "Tùy hứng khúc" (fantasie)
mang nhạc đề quốc gia (national themes) cùng
với một loạt các luyện khúc (etudes)
đầu tiên. Sau đó, Chopin đã du lịch
qua nhiều thành phố như Breslau, Dresden và
Prague, tới Vienna rồi vì hoàn cảnh chính
trị không ổn định, Chopin đã không
sang được nước Ý. Trong khi sống
tại Vienna, Chopin đã sáng tác "nhạc khúc
sinh động cung Si thứ" (B minor Scherzo) và
"nhạc khúc kể chuyện cung Sol
thứ" (G minor Ballade). Những tác phẩm này
đã bộc lộ nơi Chopin các nét nhạc
đặc sắc cá nhân trước khi Chopin
gặp Franz Liszt , Vincenzo Bellini và Hector Berlioz. Chopin
chịu ảnh hưởng âm nhạc của
Hummel và của phong điệu dương cầm
(piano style) từ nhà soạn nhạc người Aùi
Nhĩ Lan John Field, là người đầu tiên
đã dùng danh từ "nhạc khúc đêm"
(nocturne) cho các bản nhạc ngắn, trữ tình.
Frederic Chopin là nhạc sĩ dương cầm
đồng thời là nhạc sĩ sáng tác ra các
nhạc phẩm với đặc tính lãng
mạn, tập trung vào một tượng ý
(motive) trong các dạo khúc (preludes) và luyện khúc
(etudes). Chopin cũng nghiên cứu kỹ càng về
nhịp điệu, hòa âm, nhạc thức và các
nét giai điệu của nhạc phổ thông Ba
Lan cùng các vũ điệu để viết ra các
nhạc khúc Mazurka, luân khúc (walzes), nhạc khúc Ba
Lan (polonaises), nhạc điệu Bolero và Tarantella
rồi do cảm xúc, các biểu tượng âm
nhạc được Chopin viết ra bằng các
nhạc khúc đêm (nocturne), nhạc khúc sinh động
(scherzo), nhạc khúc kể chuyện (ballade),
nhạc khúc ứng tác (impromptu) và nhạc khúc tùy
hứng (fantasie). Tất cả các thể nhạc
này đã phát triển vào thời kỳ đầu
thế kỷ 19 là giai đoạn mà cây đàn dương
cầm trở nên một nhạc cụ ưu
việt, dùng để độc tấu tại
gia đình lẫn nơi thính đường.
Frederic Chopin đã không viết các bản giao hưởng,
các nhạc kịch (opera), các bản tứ hòa
(quartet) ngoài một bản hòa tấu ba đàn
(trio) gồm dương cầm, vĩ cầm và
hồ cầm (cello). Ngoài 2 sônát và 2 concerto dành
cho dương cầm đặc sắc, Chopin
nổi danh về những nhạc phẩm ngắn
với kỹ thuật cao trong tầm tay của các
nhạc sĩ tài tử.
Frederic Chopin cũng không phải là một nhạc
trưởng hay một giáo sư âm nhạc trong
nhiều năm mặc dù do dạy đàn, ông
đã kiếm được những món tiền
lớn. Trong cả cuộc đời, Frederic Chopin
đã trình diễn trước công chúng
khoảng 30 lần với những đặc
điểm trầm buồn, với sắc
nhạc đi từ rất khẽ (pianissimo)
tới mạnh vừa (mezzo forte) và rất ít khi dùng
sắc nhạc mạnh (forte).
3/ Thời trung niên và
cuối đời của Frederic Chopin.
Khi Chopin đang sống tại thành phố Vienna,
chàng nhạc sĩ được tin thủ đô
Warsaw của Ba Lan đã bị quân đội Nga xâm
lăng. Tin đau buồn này tới với Chopin và
làm chàng nhạc sĩ cảm xúc và sáng tác ra
"Luyện Khúc Cách Mạng" (the Revolutionary
Etude).
Tháng 9 năm 1831, chàng nhạc sĩ tài danh này
tới Paris và làm quen với các văn nhân
của thành phố hoa lệ này. Paris trong các năm
của thập niên 1830 là nơi quy tụ
những nhân tài gồm các nhà văn, nhà thơ,
họa sĩ, nhạc sĩ…. như Victor Hugo,
Honoré de Balzac, Bá Tước Alfred Victor Vigny, Alfonse
de Lamartine, Henrich Heine, Ferdinand Delacroix… Trong số các
nghệ sĩ lừng danh cũng có các nhạc sĩ
như Liszt và Berlioz, Rossini và Meyerbeer. Qua sự
giới thiệu của nhạc sĩ Liszt, Chopin làm
quen với bà Aurore Dudevant là một phụ nữ
có đôi mắt to, đen, u buồn và được
giới văn chương biết đến qua bút
hiệu George Sand. Bà này còn là một nhà hoạt
động chính trị, một người
phản kháng vương quyền, chống đối
các tập tục và quy ước cổ điển
của xã hội. Khi tình bạn bắt đầu,
Chopin 28 tuổi còn nữ văn sĩ Geoge Sand 34 xuân
xanh. Hai người thấy các điểm hợp
với nhau : nàng với tính tình ưa áp đảo,
lãng mạn, thường hút thuốc lá luôn
miệng và mặc bộ âu phục nam, còn chàng
lại có tính ủy mị, dễ bị chinh
phục. George Sand đã nhận thấy ở
Chopin khả năng sáng tạo rất to lớn,
rất kỳ diệu, đạt tới rất
dễ dàng. Tại Paris, Chopin đã dạy dương
cầm cho một số mệnh phụ và đã
nhận được các món thù lao rộng rãi.
Trong thời kỳ sống tại Paris, Chopin đã
nhận thấy mình không đủ sức
chịu đựng để tranh tài với các
nhạc sĩ bậc thầy về diễn
tấu (virtuoso) như Franz Liszt và Sigismund Thalberg, vì
vậy Chopin đã dồn thời gian vào việc
sáng tác âm nhạc. Chàng nhạc sĩ mảnh mai
này đã đóng cửa, ở trong nhà nhiều
ngày để dạo đàn và viết ra các
nhạc phẩm mà công chúng đều khen
ngợi.
Mùa đông năm 1838-39, do tình bạn, George Sand
đã đưa Chopin đến sống tại
đảo Majorca với hi vọng rằng nơi tĩnh
dưỡng này sẽ sớm làm phục hồi
sức khỏe cho chàng nhạc sĩ yếu đuối.
Nhưng thời tiết đã trở nên xấu và
sức khỏe của Chopin suy giảm, tuy thế
nhạc sĩ thiên tài này đã sáng tác được
24 dạo khúc (preludes) tại Valldemosa khiến cho nơi
này về sau trở thành Viện Bảo Tàng
Chopin. Trong các năm trường từ 1839
tới 1846, Chopin đã trải qua các mùa hè
tại lâu đài Nohant của nữ văn sĩ,
nơi thường quy tụ giới trí thức,
tinh hoa của nước Pháp thời đó. Đây
cũng là thời kỳ mà Chopin đã sáng tác
phong phú nhất trong khi sức khỏe của chàng
nhạc sĩ tài hoa này suy giảm dần, và
rồi tình yêu đối với George Sand trở
thành xung đột, ghen tuông và đố kỵ.
Các người con của George Sand đã trở nên
một vấn đề. Chopin đứng về
phía Solange là người con gái của George Sand, còn
phía kia là nữ văn sĩ và người con
trai Maurice, họ thường bất đồng
ý trong nhiều chuyện tranh cãi. Hai người tình
nghệ sĩ đã cách ly nhau. Sự việc này
đã khiến cho Chopin mất đi nguồn
cảm hứng và năng lực sáng tạo,
cảm thấy thất vọng và bị suy
sụp tinh thần. Tình cảm giữa Frederic
Chopin và George Sand chấm dứt vào năm 1847.
Chopin trở về Paris.
Năm 1848, Frederic Chopin sang nước Anh do lời
mời của một người học trò tên là
Jane Stirling. Tại London, Chopin đã trình diễn
âm nhạc nhiều lần và vào ngày 15-5, đã
biểu diễn trước Nữ Hoàng Victoria
của nước Anh. Sau một thời gian
ngắn nghỉ ngơi tại Tô Cách Lan, Chopin
trở về London và vào ngày 16-11-1848, đã
biểu diễn các nhạc phẩm của mình
tại Thính Đường Guildhall để gây
quỹ cứu trợ cho các người tị
nạn Ba Lan. Sau đó Chopin quay trở về Paris
và sống nhờ sự giúp đỡ của gia
đình Stirling. Frederic Chopin chết vì bệnh lao
phổi vào ngày 17-10-1849 tại thành phố Paris.
Theo lời yêu cầu của chàng nhạc sĩ lãng
mạn này, bản nhạc Cầu Hồn Requiem
của Mozart đã được đàn lên trong
buổi tang lễ. Đám tang của Frederic Chopin
thật là rực rỡ. Các nhà quý tộc, các văn
nghệ sĩ lừng danh đã đến
viếng thăm quan tài trong đó có cả
Meyerbeer, Berlioz và Delacroix nhưng nữ văn sĩ
George Sand đã vắng mặt. Frederic Chopin
được chôn trong lòng đất Paris cùng
với nắm đất của xứ Ba Lan mà chàng
nhạc sĩ đã mang theo khi rời quê hương.
4/ Các tác phẩm chính
của Frederic Chopin.
Các tác phẩm của Chopin gồm phần âm
nhạc dành cho dương cầm và dàn nhạc,
với 2 concerto dương cầm, phần
nhạc thính phòng và một số bài hát, nhưng
quan trọng nhất là phần nhạc dương
cầm gồm 4 bản nhạc khúc kể
chuyện (ballades), nhạc khúc tùy hứng cung Fa
thứ (Fantasy in F minor, 1841), nhạc khúc ru em
(Berceuse,1844), nhạc khúc đưa đò
(Barcarolle, 1846), 3 sônát (sonatas), các dạo khúc,
luyện khúc, nhạc khúc đêm, nhạc khúc sinh
động, nhạc khúc mazurka, nhạc khúc rondo, hành
khúc và biến khúc.
Các sáng tác của Chopin đều liên hệ
chặt chẽ với cây đàn dương
cầm, đặc biệt nhờ vào sự tăng
thêm các phím đàn. Chopin lại là nhạc sĩ
rất khéo léo, biết cách dùng bàn đạp
(pedal) của đàn dương cầm để
có được các cấp độ về
sắc nhạc (color) và tiếng vang (sonority) cũng
như thí nghiệm nhiều về các cách bấm
phím mới (new fingerings), dùng hết khả năng
của ngón cái hay ngón thứ 5 trên các phím đen,
tận dụng cách trượt ngón từ phím
đen xuống phím trắng hay dùng kỹ
thuật bắt chéo tay. Nhờ kỹ thuật ngón
của Chopin, các bản đàn rất khó biểu
diễn trước kia, nay trở nên dễ dàng và
do trí tưởng tượng sáng tạo về
kỹ thuật, các luyện khúc của Chopin đã
làm cho các bài tập tầm thường biến
thành các nhạc phẩm mang chất lượng
biểu diễn. Chopin còn cải tiến hòa âm
với các nét nhạc trữ tình, bay bổng,
nhờ đó đã đứng ngang hàng với
Liszt và Wagner là hai nhạc sĩ đã nới
rộng các quan niệm quy ước về cung
điệu (tonality).
Chopin đã dùng kỹ thuật của đàn dương
cầm để chuyển âm nhạc thành một
nghệ thuật rất nên thơ, một cách
diễn tả trữ tình bằng âm thanh. Các người
Ba Lan luôn luôn suy tôn Chopin như một nhạc sĩ
của đất nước Ba Lan. Miền quê hương
này đã được lý tưởng hóa trong
trí tưởng tượng của chàng nhạc sĩ
lãng mạn với ước vọng về
niềm hạnh phúc nơi quê mẹ, với lòng
trông đợi hướng về đất
tổ của kẻ lưu vong. Các nhạc khúc Ba
Lan của Chopin có thể được coi là cách
bày tỏ tinh thần quốc gia và lại là
một nhạc thức đặc biệt, tới
với nền âm nhạc tây phương bằng
tinh thần hiệp sĩ và anh hùng.
Frederic Chopin là một nhạc sĩ lừng danh
về các nhạc khúc đêm, nhạc khúc ứng
tác và dạo khúc (nocturnes, impromptus & preludes)
với cách xử dụng rất tài tình về hòa
âm và chuyển cung bán âm (chromatic harmonies &
modulations). Các nhân vật danh tiếng như các nhà
văn Balzac và Heine, các nhạc sĩ tài danh như
Liszt, Berlioz, Mendelssohn và Schumann đều ngưỡng
mộ Chopin. Nhạc sĩ Schumann đã gọi
Frederic Chopin là "một tinh thần thơ ca táo
bạo nhất và hãnh diện nhất của
thời đại" (the boldest and proudest poetic
spirit of the time).
http://vietsciences.free.fr
|