Hơn 40 năm đã trôi qua, quãng
thời gian đủ để xóa nhoà mọi niềm vui nỗi sầu, nhưng
cũng có những thứ thời gian không bào mòn nổi, đó là
ký ức về vị ân sư của tôi.
Nếu bạn theo dõi chương trình KCT trên đài VTV II
trước đây, thì người “hỏi gì đáp nấy” một cách chính
xác và dí dỏm; cũng như chuyên mục “Nông thôn ngày
nay” trên đài VTV I , người trò chuyện thân tình với
nông dân chính là người thầy của tôi. Ông cũng là
người đứng trên diễn đàn Quốc hội liền 3 khóa, phát
biểu hùng hồn bênh vực cho những người dân bình
thường nhất, đó là hình ảnh người thầy của tôi –
GS.TS Nguyễn Lân Dũng.
Tôi vốn là học sinh gốc Hoa
sinh ra và lớn lên ở TP Cảng trong một gia đình có
truyền thống công kỹ nghệ, hằng ngày cắp sách đến
trường với thầy trò toàn người Hoa. Đến năm tốt
nghiệp phổ thông, các sỹ tử mới giật mình vì vốn
tiếng Việt non kém của mình. Tôi may mắn thi đậu vào
khoa Sinh, trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội. Ngôi
trường cổ kính trên đường Lê Thánh Tông có sức dung
hoà kỳ lạ, rào cản ngôn ngữ rồi cũng nhanh chóng
được vượt qua, tôi bước sang năm thứ 2 với thành
tích xuất sắc. Lần đầu tiên nghe thầy Lân Dũng đứng
trên bục giảng, tôi bị lôi cuốn ngay không chỉ vì
một thế giới sinh vật mắt thường không nhìn thấy
được, mà còn bởi cách diễn đạt sinh động của Thầy.
Điều làm tôi ngạc nhiên là Thầy không những thông
thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga, mà còn biết cả tiếng
Trung. Tôi đã không do dự chọn ngay môn vi sinh vật
làm chuyên ngành của mình.
Năm học cuối, tôi bận rộn hết
từ giảng đường, thư viện rồi đến phòng thí nghiệm,
tới mức quên ăn quên ngủ, miệt mài với bản khóa luận
tốt nghiệp. Đến khi chấp bút, tôi mới nhận thấy
trình độ tiếng Việt của mình vẫn chưa đủ để viết một
đề tài hoàn chỉnh, đành phải viết bằng tiếng Hoa,
một việc chưa từng có lúc bấy giờ. Thầy đã giúp tôi
chuyển ngữ thành công, nhờ đó tôi đã tốt nghiệp đại
học lọai Ưu năm 1964. Vốn có chút năng khiếu về tn,
tôi đã đưa pgương pháp xác suất vào nội dung khoá
luận và thầm nghĩ, Thầy giỏi sinh, giỏi hoá, nhưng
chưa chắc đã giỏi toán, phen này sẽ gây khó cho
Thầy. Không ngờ, Thầy không những hiểu thấu đáo, còn
đưa thêm cho tôi tài liệu tham khảo và chỉ dẫn tôi
viết sao cho hoàn chỉnh hơn.
Thầy hướng dẫn tôi đi về đề tài
Vi khuẩn cố định đạm không cộng sinh Azotobacter.
Thầy đã dạy chúng tôi bước ra khỏi tháp ngà, đưa
thành quả khoa học đến tận tay nông dân. Về sau tôi
được biết, Thầy đã sáng lập Chương trình tự nguyện
đưa tiến bộ KHKT vào từng hộ nông dân và đã được bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp ký quyết định thành lập. Bằng
thực tiễn của mình, Thầy đã nêu gương sáng cho học
trò noi theo. Thầy không những chỉ truyền thụ kiến
thức, còn dạy chúng tôi phải trung thực trong khoa
học; điều không chỉ là đạo đức khoa học, còn là
chuẩn mực làm người. Hơn 40 năm lăn lộn đường đới,
dù thanh bần, tôi không dám làm sai giáo huấn của
Thầy.
Thầy tôi tốt nghiệp từ năm 18 tuổi, điều có lẽ phải
ghi vào Kỷ lục VN. Do hoàn cảnh trớ trêu, Thầy chưa
từng được đào tạo ở nước ngoài, nhưng với lòng say
mê khoa học và nghị lực phi thường, Thầy đã tự học
để vượt qua tất cả. Tính đến cuối năm 2007, Thầy đã
công bố 174 công trình nghiên cứu, sách giáo khoa,
sách tham khảo và sách phổ biến khoa học. Thầy đã cố
gắng không mệt mỏi xây dựng cơ sở vật chất cho việc
nghiên cứu Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, từ
Phòng nghiên cứu chuyên đề Vi sinh vật học phát
triển lên thành Trung tâm nghiên cứu vi sinh vật học
ứng dụng, đến tháng 5 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ
đã quyết định nâng cấp thành lập Viện Vi sinh vật và
Công nghệ Sinh học.
Tôi chẳng có được nghị lực như Thầy, sau khi tốt
nghiệp đại học, vì có ông bố là tư sản di cư, hết
đường tiến thủ, cố gắng lắm mới kiếm được chân viên
chức quèn ở tỉnh lẻ, sống yên phận qua ngày. Sau năm
1975, tôi vào Nam sinh sống, tình cơ gặp Thầy ngay
chợ Bến Thành. Lúc đó bố tôi đang làm chủ hãng nhựa
Union Plastic ở Chợ Lớn, tôi mời Thầy về thăm xưởng
nhựa của bố tôi. Union Plastic chỉ là xưởng bậc
trung, chẳng mấy tên tuổi, nhưng vẫn được Thầy khen
là”còn lớn hơn Xí nghiệp Nhựa Tiền Phong Hải Phòng”.
Bố tôi muốn chứng tỏ mình”thức thời”, đã trình bày
với Thầy kế họach mỗi tuần đưa nhân viên văn phòng
xưởng cùng lao động với công nhân 1 buổi. Thầy trả
lời hóm hỉnh: “Hôm đó sẽ mời công nhân lên ngồi văn
phòng”, làm cho mọi người có mặt đều cười ồ. Câu nói
vui đó nói lên một chân lý sâu xa: Xã hội có phân
công, không thể tùy tiện đảo lộn duy ý chí, mà lúc
đó không phải ai cũng dám nói ra.
Mùa Thu năm 2007, tôi có việc về Hà nội nên có dịp
đến thăm Thầy tại tư gia số 1 Trần Thánh Tông – ngôi
nhà đầy sách và cũng bình dị như chính cuộc đời
thầy. Bao năm xa cách, Thầy vẫn nhận ra đứa học trò
nhỏ năm xưa viết khoá luận bằng tiếng Hoa. Sau vài
câu thăm hỏi, biết tôi có viết lách giải khuây, Thầy
liền đưa cho tôi mấy cuốn sách dày cộm, đề nghị tôi
phiên dịch rồi sau đó Thầy sẽ soạn lại, cùng đứng
tên ra sách tham khảo cho sinh viên.
Về tới Sài Gòn, lòng tôi xao xuyến không nguôi, tôi
đâu đủ tầm đứng liên danh với Thầy, nhưng tôi đã cảm
nhận được: một lần nữa, Thầy muốn dương cánh buồm
căng gió đưa tôi ra khơi. Tình cảm đó, không phải
chỉ dành cho tôi, mà là dành cho cả thế hệ trẻ, hay
nói rộng hơn, là cho cả tình hữu nghị Việt-Hoa.
Đêm khuya thanh vắng, khi đã mệt nhoài, tôi chợt
nhới đến giọng nói trầm bổng, ấm cúng của Thầy như
đang thúc giục. Tôi liền pha ấm trà đặc, gắng ngồi
trước máy vi tính đánh thêm vài trang, mong không
phụ công dìu dắt của vị ân sư.

GS Nguyễn Lân Dũng và Chủ tịch
Liên đoàn Vi sinh vật học thế giới (IUMS) trong
ngày kết nạp Hội vi sinh vật học VN vào IUMS
Giải
nhất thi viết "Người Thấy của tôi", báo Người
Lao Động |