Về vấn đề học vị Tiến sĩ (*)

Vietsciences- Trần Văn Thọ     19/02/2006

 

  • Thế nào là một luận án tiến sĩ?
  • Học và nghiên cứu như thế nào để viết được luận án tiến sĩ?
  • Về giáo sư hướng dẫn viết luận án tiến sĩ
  • Cơ chế và phương pháp đánh giá luận án tiến sĩ
  • Vài lời kết và kiến nghị
  • Báo Thanh niên phỏng vấn
  • Với Vietnam.net

Thật là đáng buồn, đáng lo khi thấy văn bằng tiến sĩ ở Việt Nam tiếp tục là đối tượng bị chế giễu trong thiên hạ nhưng người ta vẫn tiếp tục đổ xô vào vịệc lấy bằng và nhà nước vẫn tiếp tục cho đầo tạo và cấp bằng nầy (**).

Nhân dịp về giảng dạy trong nước từ cuối năm 1996 đến giữa năm 1997, tôi đã tham dự 8 buổi bảo vệ luận án phó tiến sĩ (sau đó văn bằng nầy được tự động chuyển thành tiến sĩ) và đã thấy rõ nguy cơ của việc đánh giá văn bằng nầy ở VN. Tôi đã nêu ý kiến và đưa kiến nghị cụ thể về vấn đề nầy trên mục Ý kiến nhà khoa học của báo Nhân Dân số ra ngày 17/7/1997. Theo yêu cầu của Vụ trưởng Vụ đào tạo sau đại hoc (Bộ Giáo dục và đào tạo), tôi cũng có dịp thuyết trình về đề tài nầy tại Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ngày 6/3/2000. Thế nhưng tình hình sau đó không những không được cải thiện mà có vẻ còn trầm trọng hơn (***).

Bản chất của vấn đề là gì? Làm sao để chấm dứt tình trạng hiện nay? Tôi xin phát biểu thêm một số ý kiến (chủ yếu về lãnh vực kinh tế học) và đưa ra vài kiến nghị cụ thể.

Những vấn đề lớn của VN là hiểu chưa đúng về chuẩn mực của luận án tiến sĩ nói riêng và trình độ của người được cấp bằng tiến sĩ nói chung, cơ chế đào tạo quá lỏng lẻo, tiêu chuẩn của giáo sư hướng dẫn không được quy định nghiêm túc, chưa xác lập được cơ chế đánh giá khách quan về luận án tiến sĩ và suy nghĩ sai về ý nghĩa của văn bằng nầy...

Thế nào là một luận án tiến sĩ?  

Trình độ của người được cấp bằng và chuẩn mực khách quan của luận án Tiến sĩ là gì? Tiến sĩ là học vị cao nhất trong khoa học. Người được cấp bằng tiến sĩ do đó phải am hiểu các lý luận cơ bản, các khung phân tích trong ngành mình (trong kinh tế học đó là kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô), và nắm vững các khái niệm, các khung phân tích, các lý luận và những tiến triển nghiên cứu mới trong ngành chuyên môn hẹp của mình (chẳng hạn kinh tế phát triển, kinh tế quốc tế, kinh tế lao động, v.v.). Những kiến thức cơ bản nầy được trang bị từ các cấp bậc đại hoc và thạc sĩ nhưng ở bậc tiến sĩ phải được tiếp tuc ở trình độ cao hơn và nhất là phải có cơ chế kiểm tra nghiêm túc để bảo đảm cho ứng cử viên học vị nầy hội đủ các điều kiện đó.

Trình độ của ứng cử viên tiến sĩ được thử thách và được nhân lên trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án tiến sĩ. Ngoài tính khoa học, logic tất nhiên phải có, một luận án tiến sĩ phải có hai tính chất quan trọng. Thứ nhất là tính học thuật (academic) trong đó vấn đề phải được triển khai bằng ngôn ngữ khoa học, bằng những khung lý luận cơ bản trong ngành và gói ghém có phê phán tất cả các lý luận, các kết quả mà các công trình nghiên cứu trước đã đạt được liên quan đến đề tài của mình. Thứ hai là tính độc sáng (originality), luận án phải đặt ra được những vấn đề mới, đưa ra được những giả thuyết hay lý luận mới và kiểm chứng bằng những tư liệu mới.

Cần nói thêm rằng đòi hỏi chính của luận án tiến sĩ là sự đóng góp về mặt lý luận và luận án là bằng chứng cho thấy ứng cử viên tiến sĩ có trình độ nghiên cứu độc lập, chứ không đòi hỏi phải giải quyết một vấn đề thực tế (dĩ nhiên nếu kết quả nghiên cứu góp phần giải quyết một vấn đề thực tiễn thì càng tốt nhưng đó là thứ yếu). Sau khi lấy bằng tiến sĩ, tùy theo nhu cầu công tác lúc đó mới cần nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tại VN, chí ít là trong lãnh vực kinh tế, hình như đa số hiểu sai về ý nghĩa của luận án tiến sĩ. Các đề tài của một luận án tiến sĩ kinh tế học ở VN thường là ‘”Những giải pháp để…” (chẳng hạn, những giải pháp để huy động vốn trong dân, những giải pháp để thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ chiến lược công nghiệp hoá, v.v..). Huy động vốn, đầu tư nước nngoài tại VN,. v..v dĩ nhiên có thể được chọn là đối tượng nghiên cứu nhưng đó chỉ là trường hợp được chọn để kiểm chứng một vần đề có tính cách lý luận chứ không phải nhằm để giải quyết một vấn đề thực tế. Ở VN, được biết nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ tốn hàng tỉ đồng và huy động hàng chục nhà nghiên cứu nhưng ít có công trình trực tiếp giải quyết vấn đề thực tiễn mà tại sao lại kỳ vọng ở công trình của một người với phí tổn đào tạo chưa tới 3 triệu đồng 1 năm? (****)

Cách suy nghĩ về việc chọn đề tài ở VN chỉ làm cho luận án tiến sĩ thiếu tính học thuật và phần lớn thiếu tính độc sáng. Nội dung, trình độ của luận án do đó còn rất xa mới đạt được tiêu chuẩn tối thiểu của thế giới và người được cấp bằng trong truờng hợp đó khó có thể thảo luận khoa học với chuyên gia nước ngoài trong cùng ngành.

Học và nghiên cứu như thế nào để viết được luận án tiến sĩ?

Ở nước ngoài, để có đủ kiến thức nhận tư cách ứng viên và để viết được luận án tiến sĩ có đủ tính học thuật và tính độc sáng, nghiên cứu sinh phải tập trung học liên tục và rất vất vả trong nhiều năm. Tôi xin kể trường hợp của 2 sinh viên mà tôi đã hướng dẫn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ 2 năm qua. Sinh viên Trung Quốc lấy tiến sĩ năm 2002, là sinh viên du học tự túc nên phải làm thêm mỗi tuần 2 ngày nhưng 5 ngày còn lại tập trung học, nghiên cứu và đã mất tất cả 5 năm sau khi lấy bằng thạc sĩ và thỉ đỗ vào bậc tiến sĩ. Sinh viên Việt Nam bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đầu năm 2003, có học bổng của chính phủ Nhật nên chuyên tâm vào việc học và làm luận án, nhưng cũng mất 4 năm. Trừ những kỳ nghỉ hè, nghỉ Tết, hằng tuần tôi có trách nhiệm mở lóp hướng dẫn nghiên cứu gọi là seminar và tất cả các nghiên cứu sinh học với tôi (thuộc nhiều năm học khác nhau trong hai bậc thạc sĩ và tiến sĩ.) đều phải tham dự. Mỗi tuần có 1 hoặc 2 nghiên cứu sinh báo cáo về sự tiến triển của đề tài nghiên cứu của mình, các nghiên cứu sinh khác tham gia thảo luận để vừa giúp bạn gợi mở các ý tưởng mới vừa tham khảo phuơng pháp luận nghiên cứu và thông tin về động hướng nghiên cứu của từng đề tài mà giáo sư hướng dẫn chỉ ra cho người báo cáo. Nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ trong năm đầu phải theo học nhiều môn cơ bản và chuyên môn liên hệ với nhiều giáo sư khác, song song với việc tham gia seminar của giáo sư hướng dẫn mình để từng bước xây dựng đề cương nghiên cứu. Việc xây dựng đề cương là quá trình lao động vất vả nhất vì đề cương phải cho thấy luận án khi hoàn thành sẽ có đủ 2 tính chất học thuật và độc sáng nói trên. Các nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ cứ độ vài ba tháng báo cáo trong seminar một lần và khi cần thiết đến phòng nghiên cứu của giáo sư để được hướng dẫn thêm. Nhiều sinh viên không xây dựng được đề cương, cuối cùng phải bỏ cuộc.

Ở Việt Nam, việc học ở bậc tiến sĩ quá đơn giản. Tại một cơ sở đào tạo nọ, nghiên cứu sinh chỉ phải học 3 chuyên đề và được biết trong mỗi chuyên đề thầy giáo (đa số là phó giáo sư) chỉ giảng 1 ngày sau đó nghiên cứu sinh tự làm các tiểu luận liên hệ (các chuyên đề nhiều khi cũng chỉ là những vấn đề thực tế, không nhất thiết là chuyên đề giúp cho nghiên cứu sinh nắm vững hơn về mặt lý luận và phương pháp luận nghiên cứu. Đây cũng là hệ quả tất yếu khi luận án tiến sĩ không đòi hỏi phải có tính học thuật). Quan hệ với giáo sư hướng dẫn cũng lỏng lẻo (vấn đề giáo sư hương dẫn sẽ nói thêm sau). Cũng vì việc học không đòi hỏi sâu về mặt lý luận và luận án không đòi hỏi có tính học thuật và độc sáng nên nhiều người học tại chức cũng có thể bảo vệ “thành công” luận án trong 3-4 năm. Ở nước ngoài khó có thể tưởng tượng được là một người đương phải đảm trách công việc quản lý xí nghiệp hay quản lý nhà nước mà chỉ trong 3-4 năm có thể lấy được bằng tiến sĩ! (trừ trường hợp người đó được biệt phái 3-4 năm để đi học). Ở Nhật thỉnh thoảng có trường hợp một quan chức ở một bộ kinh tế hay ngân hàng nhà nước bảo vệ thành công luận án tíến sĩ nhưng đó là trường hợp rất đặc biệt của những người có khả năng nghiên cứu ký luận và công việc hằng ngày của họ cũng liên quan đến nghiên cứu, và nhất là có công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học có uy tín (cũng cần nói thêm là những quan chức ấy muốn lấy bằng tiến sĩ là để trong tương lai chuyển sang nghề dạy học hoặc nghiên cứu ở các viện, chứ văn bằng không liên quan gì đến việc đề bạt ở các cơ quan quản lý).

Về giáo sư hướng dẫn viết luận án tiến sĩ

Để cho dễ hiểu tôi mạn phép bắt đầu bằng truờng hợp cụ thể của tôi. Tôi phụ trách dạy môn kinh tế ngoại thương và môn kinh tế chuyển đổi (từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị truờng) cho sinh viên bậc đại học và phụ trách dạy môn kinh tế phát triển cho sinh viên (nghiên cứu sinh) sau đại học. Nói chung phạm vi chuyên môn của tôi về mặt lý thuyết là kinh tế phát triển và kinh tế quốc tế, và về mặt thức tiễn là kinh tế Á châu. Để cập nhật nội dung các bài giảng, để hướng dẫn nghiên cứu sinh làm luận án, và để tiến hành các đề tài nghiên cứu của riêng mình, dĩ nhiên tôi phải theo dõi thường xuyên động hướng nghiên cứu trên thế giới liên quan đến chuyên môn của mình. Ngoài việc theo dõi trên sách và tạp chí chuyên môn, phải thường xuyên tham gia báo cáo, thảo luận tại các hội thảo khoa học, nhất là tham gia các hoạt động của hội khoa học chuyên ngành (Tôi hiện nay là thành viên của Hội kinh tế quốc tế Nhật Bản, Hội kinh tế chính trị Á châu và hai hội khác). Các hội khoa học tại Nhật tổ chức báo cáo khoa học hàng tháng tại vùng mình sinh sống và hằng năm tổ chức đại hội toàn quốc để hội viên (đã được chọn) báo cáo thành quả nghiên cứu của mình.

Nói chung đây là hoạt động thông thường của một giáo sư ở đại hoc Nhật. Nhưng đây mới chỉ là điều kiện cần của một ngưòi có tư cách hướng dẫn nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ. Điều kiện đủ là công trình, thành quả nghiên cứu của giáo sư đã được đánh giá trong giới khoa học. Ở các đại học lớn mỗi khoa thường có độ 50 giáo sư nhưng chỉ có độ 20 ngưòi có tư cách dạy ở bậc tiến sĩ . Tóm lại, điều kiện tối thiểu của một ngưới có tư cách hướng dẫn nghiên cứu sinh làm luận án phải là một giáo sư đương nhiệm mà công việc chính là giảng dạy và nghiên cứu tại một đại học hay một viện nghiên cứu. Nếu không là đương nhiệm thì về mặt cơ chế không có tư cách hướng dẫn hay phản biện luận án tiến sĩ, và về mặt thực tế không thể giúp sinh viên chọn một đề tài có tính độc sáng vì người đó không có điều kiện theo dõi những nghiên cứu mới trên thế giới về ngành của mình.

Một điều rất lạ với thế giới nhưng rất phổ biến ở VN là có nhiều vị có học hàm, học vị nhưng đã chuyển sang làm quản lý và các công việc khác không liên quan đến nghiên cứu và giảng dạy lại được mời làm thành viên hội đồng chấm luận án, thậm chí được mời làm giáo sư hướng dẫn cho nghiên cứu sinh. Dĩ nhiên có thể có truờng hợp ngoại lệ là các vị đó vẫn tiếp tục phát biểu các công trình nghiên cứu về học thuật trên các tạp chí khoa học, đươc giới khoa học trong ngành đánh giá cao, nhưng truờng hợp này rất hiếm và và khó thấy ở các nước khác. .

Cơ chế và phương pháp đánh giá luận án tiến sĩ

Khi các vấn đề về chuẩn mực của luận án, về cơ chế nghiên cứu học tập của sinh viên và về tư cách giáo sư thành viên chấm luận án nói ở trên được giải quyết đúng đắn thì việc đánh giá luận án không còn là vấn đề khó khăn. Hơn nữa, giáo sư hướng dẫn là người chịu trách nhiệm đầu tiên về việc đánh giá. Không một giáo sư nào thấy luận án của học trò mình chưa đạt tiêu chuẩn khách quan về học thuật và độc sáng mà dám đưa ra hội đồng bảo vệ. Có thể còn nhiều dư địa để cải thiện hơn nữa mà giáo sư hướng dẫn không thấy hết nhưng ít nhất 2 tiêu chí nói trên của luận án tiến sĩ được xem là đạt rồi mới cho bảo vệ. Trên cơ sở đó, các giáo sư khác trong hội đồng, cũng trên uy tín của mình, phải đánh giá thẳng thắn. Ở đây không cần bảo vệ kín mà vẫn giữ được sự khách quan là vì vậy. Cần nói thêm nữa là trong quá trình chuẩn bị luận án, nghiên cứu sinh được báo cáo trước hội đồng chấm luận án một hoặc hai lần trước khi bảo vệ cuối cùng ít nhất là 1 năm để nhận các ý kiến hướng dẫn cho giai đoạn tới.

Ngoài ra, để bảo đảm tối đa sự khách quan của việc đánh giá, ở Nhật và các nước tiên tiến khác đặt cơ chế xã hội hoá việc đánh giá trước khi cho nghiên cứu sinh bảo vệ. Có hai hình thức xã hội hoá. Một là để được bảo vệ cuối cùng, nghiên cứu sinh phải có ít nhất 2 hoặc 3 (tuỳ trường đại học) công trình liên quan đến luận án đăng ở các tạp chí có thẩm định (referee). Tạp chí có thẩm định là tạp chí khi ban biên tập nhận bài xin gửi đăng sẽ gửi bài đó (thừờng là sau khi che dấu tên người viết) đến ít nhất 2 nhà nghiên cứu cùng ngành để nhờ thẩm định. Tên tuổi của những người thẩm định dĩ nhiên không được công bố. Người thẩm định sẽ dựa trên tiêu chuẩn học thuật và tính độc sáng của bài viết khi đưa ra quyết định đăng hay không. Các bài viết đăng ở các tạp chí không có chế độ thẩm định khách quan nầy không được xem là công trình nghiên cứu.

Một hình thức nữa là cho nghiên cứu sinh báo cáo trước đại hội toàn quốc hằng năm của ngành chuyên môn (Tôi đã cho sinh viên Trung Quốc và sinh viên VN nói trên ra báo cáo kết quả nghiên cứu tại Hội nghiên cứu chính trị và kinh tế Á châu). Ở Nhật nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ có thể trở thành thành viên của các hội khoa học. Để được báo cáo, nội dung tóm tắt của luận án phải được thông qua ở ban tổ chức đại hội. Điều quan trọng là trước mặt các nhà khoa học trên toàn quốc, luận án của học trò mình bị chê là không độc sáng hoặc thiếu sót lớn về mặt khoa học thì người chịu tai tiếng đầu tiên là giáo sư hướng dẫn. Trong trường hợp đó, về mặt khách quan, xem như nghiên cứu sinh ấy không thể bảo vệ ngay ở đại học được nữa mà phải nghiên cứu thêm..

Dưới cơ chế đào tạo nói trên và sau khi đã xã hội hoá việc đánh giá, cuộc bảo vệ cuối cùng đương nhiên sẽ đưa lại kết quả tốt. Cần nói thêm rằng trong khi nêu ý kiến đánh giá của mình trong hội đồng, không có giáo sư nào phát biểu những câu như “luận án nầy văn phong sáng sủa, bố cục chặt chẽ,…”. mà chỉ xoay quanh tính học thuật và tính độc sáng của luận án. Ngay cả truờng hợp nghiên cứu sinh người Trung Quốc và người VN của tôi viết và bảo vệ luận án bằng tiếng Nhật cũng không có ai khen theo kiểu như vậy. Có dịp tham dự mấy buổi bảo vệ tại VN, tôi rất ngạc nhiên khi nghe những câu đánh giá như vậy và có cảm tưởng như người phát ngôn đương nói về một luận án tốt nghiệp đại học.

Vài lời kết và kiến nghị

Việt Nam phải đứng trước một sư chọn lựa giũa hai con đường: (1) Duy trì cơ chế hiện tại, tiếp tục sản xuất bằng tiến sĩ theo tiêu chuẩn của riêng mình, và văn bằng nầy xem như hàng nội địa chỉ tiêu thụ tại nước mình. (2) Xem học vị tiến sĩ sản xuất trong nước phải tương đương hoặc gần như tương đương với văn bằng ở nước ngoài.

Nếu chọn con đường thứ hai thì tôi đề nghị như sau:

Thứ nhất, cần đặt lại vấn đề chuẩn mực của luận án tiến sĩ, nhấn mạnh tính học thuật và tính độc sáng phải có của một luận án tiến sĩ.

Thứ hai, tham khảo các truờng hợp điển hình ở nước ngoài, rà soát lại các tiêu chuẩn của giáo sư hướng dẫn làm luận án và các cơ sở được phép đào tạo tiến sĩ theo hướng nâng cao hẳn các tiêu chuẩn để theo gần với nước ngoài.

Thứ ba, người có học hàm học vị cao nhưng không phải là giáo sư đương nhiệm ở đại học hoặc cơ quan nghiên cứu thì không được phép tham gia hội đồng đánh giá luận án.

Thứ tư, 3 điểm nói trên thực hiện triệt để sẽ thấy rằng VN hiện nay chưa đủ điều kiện để đào tạo và cấp hàng loạt văn bằng tiến sĩ, do đó vấn đề tiếp theo là chuẩn bị cơ chế và nhân tài để 10 năm tới có thể đào tạo nhiều hơn văn bằng nầy.

Thứ năm, không xem văn bằng tiến sĩ là một trong những tiêu chuẩn để đề bạt ở các cơ quan quản lý của nhà nước hoặc các cơ quan khác. Không cấp kinh phí và không tạo các điều kiện khác cho cán bộ đi học tại chức bậc tiến sĩ.

Ta có thể tự hào rằng giới trẻ VN rất thông minh. Nhiều nghiên cứu sinh người VN thành công xuất sắc trong việc bảo vệ luận án tiến sĩ tại Nhật. Tôi cũng đã gặp nhiều bạn trẻ lấy bằng tiến sĩ ở Mỹ, ở Úc, …về đương làm việc tại Hà Nội , Thành phố Hồ Chí Minh,.. hầu hết rất giỏi. Nếu ta có cơ chế, chính sách đúng đắn, trong tương lai tại VN cũng sẽ có nhiều tiến sĩ tài giỏi.

Trần Văn Thọ
Giáo sư kinh tế học, Đại học Waseda, Tokyo


(*) Bài đã đăng trên báo Tia Sáng số tháng 9 năm 2003

(**) Tôi chủ yếu làm việc ở nước ngoài, chỉ đọc định kỳ một số báo nhất định và chỉ riêng 2-3 năm gần đây cũng đã thấy các bài viết sau: (1) Văn Như Cương, 10 lời khuyên cho những ai muốn làm luận án Tiến sĩ (Tía Sáng, 2/2001), (2) Thanh Thảo, Có bằng mà cậy chi bằng (Văn Nghệ, 3/8/2002), (3) Lê Minh Phúc, Ông ấy là Tiến sĩ (Văn Nghệ, 20/7/2002), (4) Lưu Quang, “Tiến sĩ giá rẻ” (Lao động cuối tuần (3/11/2002).

(***) Từ sau năm 1998 đến nay, tôi có tham dự 2 buổi bảo vệ luận án tiến sĩ tại Hà Nội và có dịp đọc 3,4 luận án khác.

(****) Theo bài báo “Tiến sĩ giá rẻ” nói ở chú thích đầu thì là 2,77 triệu đồng một năm.

 

http://www.ncst.ac.vn/HVGD/

==========================

Báo Thanh Niên phỏng  vấn:

03/11/2004

Vừa hoàn tất chương trình giảng dạy 5 tuần lễ tại Đại học Đà Nẵng, Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Thọ (Đại học Waseda - Nhật Bản) đã dành cho Thanh Niên cuộc phỏng vấn chung quanh tình hình dạy và học ở các trường đại học hiện nay và dự án xây dựng một trường Đại học quốc tế tại đô thị cổ Hội An, mà ông là người lập đề án và đứng tên Trưởng ban vận động thành lập.

- Thưa giáo sư, ông đã có nhiều bài viết sắc sảo về đào tạo ở bậc đại học, về học vị, bằng cấp hiện nay với cách đối chiếu thực trạng ở Việt Nam với các nước. Sau 5 tuần được mời thỉnh giảng ở Đại học Đà Nẵng, cũng như trước đó ở Hà Nội và TP HCM, giáo sư có thêm nhận xét gì mới về giáo dục Đại học ở nước ta hiện nay?

- Giáo sư Trần Văn Thọ: Cũng không có gì khác so với những điều tôi đã viết. Nhưng có thêm nhiều dẫn chứng cụ thể hơn minh họa cho những ý kiến của tôi. Có thể tóm tắt là: Ở nước ta hiện nay, ngoài một số ít các các giáo sư rất có uy tín, vị trí của người giảng dạy ở bậc đại học ít được tôn trọng trong xã hội. Họ giảng dạy nhiều hơn nghiên cứu, thậm chí công tác nghiên cứu không được chú trọng. Nhiều người có trình độ không cao hơn các sinh viên giỏi là học trò mình là bao. Thù lao cho họ cũng rất thấp. Ở bên Nhật chẳng hạn, khi các giáo sư đi ăn với sinh viên thì giáo sư trả tiền. Còn ở nước mình, sinh viên lại góp tiền vào để “bao” cho thầy. Chính vì vậy chất lượng đào đạo đại học tất nhiên sẽ không cao và có nhiều chuyện tiêu cực trong quan hệ thầy trò. Về Đà Nẵng lần này tôi cũng có nhận lời hướng dẫn các nghiên cứu sinh làm luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ trong nước. Công bằng mà nói, các luận văn của họ chỉ là các báo cáo nghiệp vụ chứ chưa thể gọi là luận văn được. Ở Nhật, tôi có dạy cho 2 sinh viên Việt Nam sang học Thạc sĩ. Một người sau đó chỉ mất 2 năm về Việt Nam đã lấy bằng Tiến sĩ, còn người ở lại Nhật phải mất đến 5 năm làm việc cật lực mới được công nhận. Một trường hợp khác là nữ cán bộ đương chức được học bổng sang Nhật học Tiến sĩ cũng đã không thể chịu nổi áp lực của việc học tập hết sức căng thẳng và tâm sự với tôi là không biết có thể hoàn tất chương trình trong 5 năm không! Đó là những ví dụ cho thấy phần nào chất lượng đào tạo hiện nay trong nước…

- Giáo sư đang nói chuyện đào tạo ở các trường đại học công lập. Còn ở các trường dân lập hiện nay ở nước ta thì sao?

- Giáo sư Trần Văn Thọ: Cũng không khác nhau là mấy về mặt bản chất. Bình quân một sinh viên được đào tạo ở đại học công lập Việt Nam hiện nay tốn hết 6,5 triệu đồng mỗi năm. Ở các trường dân lập, sinh viên chỉ đóng học phí trên dưới 2 triệu đồng (tức khoảng 30% so với công lập). Nhưng anh thấy đấy, kể cả phải nộp thuế như một công ty, các trường dân lập vẫn rất giàu, họ tích luỹ vốn rất nhanh để xây dựng cơ sở vật chất, các chủ trường nhanh chóng trở thành các tỉ phú chỉ trong vài năm. Có một người đi huy động vốn mở trường đại học dân lập mà tôi được biết đã hứa với các nhà đầu tư rằng sẽ có mức lãi không dưới 15% khi góp vốn. Ở các nước, trường tư không bao giờ đặt nặng vấn đề lợi nhuận. Hiệu trưởng hoặc chủ tịch hội đồng quản trị các trường tư cũng hưởng lương như các giáo sư và chỉ cao hơn các giáo sư khoảng 30%. Và cũng như các trường công, việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường này luôn song hành. Các giáo sư làm việc 1/3 thời gian trong phòng nghiên cứu và vẫn được trả lương như giảng dạy…

- Giáo sư đang xúc tiến xây dựng một trường đại học dân lập ở Hội An và là Trưởng ban vận động. Tôi có thông tin là UBND tỉnh Quảng Nam đã có quyết định cấp 28 ha đất ở phía Bắc thị xã Hội An để xây dựng cơ ngơi cho trường này. Phải chăng đây là một trường đại học có tầm vóc và tránh được các nhược điểm của giáo dục đại học hiện nay ở nước ta?

- Giáo sư Trần Văn Thọ: Đến nay, nhiều giáo sư, nhà hoạt động xã hội có uy tín trong nước lẫn nước ngoài, nhiều nhà đầu tư Nhật Bản và các doanh nhân thành đạt người Quảng Nam, các nhà báo có uy tín đã nhận lời tham gia Ban vận động thành lập trường đại học này. Ông Nguyễn Hoàng Long, nguyên phó chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng làm thường trực Ban vận động, tiến hành lập dự án và các thủ tục liên quan. Tôi lo vận động tài trợ, thiết kế nội dung chương trình đào tạo và mời các giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành trong nước và quốc tế đến giảng dạy. Có thể nói tên trường sẽ là Trường đại học quốc tế Hội An. Hội An là di sản văn hoá thế giới nổi tiếng sẽ giúp quảng bá cho thương hiệu của một trường đại học. Trường đặt trọng tâm vào lĩnh vực giáo dục có chất lượng không thua bất cứ đại học nào trên thế giới chứ không nhằm vào kinh doanh và sẽ khắc phục mọi nhược điểm giáo dục hiện nay ở bậc đại học. Sinh viên sẽ được tuyển rất khắc khe và sẽ có 1/3 thời gian học theo hình thức seminar. Hai năm đầu, các seminar được các giáo sư giỏi hướng dẫn khả năng diễn đạt tiếng Việt, Anh ngữ và vi tính. Ví dụ, giáo sư sẽ đưa các cuốn sách hay về văn học, lịch sử Việt Nam, tác phẩm khác bằng tiếng Anh vào thảo luận, sinh viên sau đó sẽ viết bài bình luận tóm tắt theo các mức thời gian 5 phút, 15 phút bằng tiếng Việt hoặc Anh ngữ, tuỳ theo môn học…. Cách học này giúp sinh viên hình thành khả năng tư duy, xử lý thông tin và có căn bản về ngoại ngữ. Năm thứ 3 sẽ là các semiar chuyên đề theo ngành học và năm thứ 4 sẽ hoàn chỉnh kiến thức và làm luận văn tốt nghiệp. Một vấn đề hết sức khó khăn là chọn và mời giáo sư giỏi. Họ phải đáp ứng 3 yêu cầu: Nắm vững lý luận về chuyên ngành họ giảng dạy; có kiến thức chuyên sâu về thực tiễn chuyên ngành đó và theo dõi được các động hướng nghiên cứu chuyên ngành trên thế giới. Giáo sư sẽ được trả lương cao trong giảng dạy kể cả thời gian họ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Ngay ở trong nước hiện nay đã có nhiều vị được đào tạo ở nước ngoài về, đáp ứng 3 yêu cầu đó, nhưng họ không mặn mà với chuyện đi dạy mà thích làm chuyên gia ở các bộ, ngành trung ương chỉ vì thù lao đi dạy quá thấp. Trả thù lao xứng đáng cho họ cũng là cách để phục quyền, xác lập lại vị trí của người thầy hiện nay.

- Trường đại học quốc tế Hội An sẽ có các ngành đào tạo nào, thưa giáo sư?

- Giáo sư Trần Văn Thọ: Trường chúng tôi sẽ có 3 khoa và 3 viện nghiên cứu. Ba khoa là: 1- Khoa Văn hoá quốc tế tổng hợp, tôi tạm dịch là International Liberal Art. Khoa này trang bị kiến thức về văn hoá, lịch sử dân tộc, văn hoá thế giới ở một mặt bằng cao. Sinh viên ra trường có thể hoạt động ở nhiều ngành như làm công chức, kinh doanh, học giả, nhà báo… nhờ họ được trang bị phương pháp tư duy, nghiên cứu tiên tiến và có năng lực về văn hoá. Hiện nay là một ngành học đang được thế giới quan tâm. Tại Nhật, những sinh viên học ngành này thường thành đạt cao khi ra làm việc; 2- Khoa Kinh tế du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho việc phát triển du lịch của miền Trung trong tương lai và 3- Khoa Kinh tế kinh doanh quốc tế. Ba Viện nghiên cứu bao gồm: Viện nghiên cứu phát triển miền Trung-Tây nguyên, Viện nghiên cứu đô thị cổ và Viện nghiên cứu Xuyên Á. Ngoài ra, sẽ có một Hội quán giao lưu văn hoá Hội An làm nơi cho các giáo sư được mời thỉnh giảng đến ở. Phần còn lại để kinh doanh du lịch đối với khách thuộc giới trí thức, và là nơi tổ chức các sinh hoạt giao lưu văn hoá, hội thảo khoa học… Cũng xin nói trước là chất lượng sinh viên thi vào sẽ rất cao và phần thi về Anh văn và tiếng Việt là các môn bắt buộc.

- Trường đại học quốc tế Hội An sẽ bắt đầu hoạt động khi nào?

- Giáo sư Trần Văn Thọ: Với các ngành dạy rất mới, rất tiên tiến và sự xuất hiện của các giáo sư giỏi, chắc chắn trường Đại học quốc tế Hội An sẽ thu hút nhiều sinh viên các nước đến du học. Nếu thủ tục và việc đầu tư suông sẻ, có thể trường này sẽ hoạt động từ đầu năm 2007.

- Xin cảm ơn giáo sư đã dành cho TN cuộc trò chuyện này.

Trương Điện Thắng

http://www.thanhnien.com.vn/Giaoduc/2005/4/4/79757.tno

=============================

Với  Vietnam.net

Đào tạo tiến sĩ: Cải tổ từ cơ sở và ông thầy!

17/01/2006

(VietNamNet) - "Dư luận lên án người đi mua và bán luận án. Nhưng tôi lấy làm lạ là không ai đặt câu hỏi “làm sao những người mua luận án đã bảo vệ thành công và lấy bằng tiến sĩ"? Họ đã bảo vệ tại đâu, ai ở trong hội đồng chấm luận án ấy? Làm sao nhờ người khác thi hộ để được ghi danh học tiến sĩ mà GS hướng dẫn sau đó không phát hiện được?"

Soạn: AM 678139 gửi đến 996 để nhận ảnh này
Tham khảo tóm tắt một luận án tiến sĩ tại hội nghị đào tạo sau ĐH . Ảnh: Lê Anh Dũng

Từ  ĐH Waseda (Tokyo), GS kinh tế học Trần Văn Thọ đã "kiến nghị một giải pháp dứt khoát cho vấn đề học vị tiến sĩ" (tiêu đề bài viết mà ông gửi cho VietNamNet)

Mục tiêu không có căn cứ khoa học

Từ “lạm phát” văn bằng tiến sĩ tại Việt Nam không đủ để diễn tả tình hình đã quá trầm trọng. Ta vẫn còn bắt gặp những cụm từ “tiến sĩ giấy”, “thi hộ tiến sĩ”, “chợ luận án tiến sĩ”, v.v... trên các bài báo trong nước gần đây.

Tiến sĩ là học vị cao nhất trong khoa học mà lại có thể thi hộ, có thể mua luận án cũ để nộp mà vẫn lấy được bằng? Một người bình thường với một trình độ hiểu biết trung bình cũng có thể đặt ra nghi vấn đó. Đặt được nghi vấn đó thì thấy ngay cái gốc của vấn đề. Tại sao Nhà nước vẫn không thấy hay là thấy mà vẫn không muốn sửa, và tại sao không muốn sửa?

Trong khi dư luận báo chí và những người hiểu biết than thở với nhau “cái học ngày nay đã hỏng rồi” thì những người có trách nhiệm của Nhà nước vẫn tiếp tục đưa ra mục tiêu không có căn cứ khoa học (đến năm 2010 phải có 19.000 tiến sĩ!). Và để đạt mục tiêu, đã đưa các chỉ tiêu xuống các cơ sở giáo dục đào tạo, mà theo chuẩn mực quốc tế, còn rất xa mới đủ năng lực để dạy bậc tiến sĩ.

Nhà nước có ảo tưởng là cứ tăng số lượng nguời có bằng tiến sĩ là có đủ “nhân tài” gánh vác công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong lúc đó, về phía cầu, xã hội ngày càng chạy theo bằng cấp, bằng càng cao càng dễ được đề bạt lên các chức vụ cao hơn. Cả hai mặt cung và cầu đều có thể sửa đổi được ngay nếu Nhà nước thấy vấn đề và có quyết tâm thực hiện.

Tôi vẫn không hiểu tại sao tình hình này cứ kéo dài và có chiều hướng trầm trọng hơn mặc dù nhiều người đã thấy vấn đề rất sớm và đã cảnh báo.

Gần 10 năm trước, trên báo Nhân Dân, tôi đã nêu vấn đề này.

Ở ĐH Thammasat, một ĐH dạy kinh tế lâu đời nhất của Thái Lan, trong số gần 60 GS, PGS và giảng viên chính của khoa kinh tế, có hơn 2/3 là những người đã học và lấy bằng tiến sĩ từ các nước tiên tiến, phần lớn là từ các đại học hàng đầu của Mỹ. Thế nhưng, để bảo đảm chất lượng văn bằng tiến sĩ, họ chưa dám bắt đầu đào tạo.

Với số người từng được thử thách và thành công ở các ĐH tiên tiến như vậy, về mặt số GS có tư cách hướng dẫn, họ đã có đủ. Nhưng các điều kiện khác không cho phép nghiên cứu sinh tại Thái Lan cập nhật với các nghiên cứu mới trên thế giới nên họ đã thận trọng. Vào thời điểm hiện tại, ĐH Thammasat vẫn còn rất thận trọng mặc dù lực lượng GS của họ hùng hậu hơn truớc: Hiện nay, có 70 GS, PGS và giảng sư trong khoa kinh tế. Hầu hết đã lấy tiến sĩ từ các nước tiên tiến, mấy năm gần đây họ đã chính thức xây dựng chương trình đào tạo tiến sĩ nhưng mỗi năm cũng chỉ cấp 4 hoặc 5 văn bằng.

Một người bạn của tôi đang dạy ở đó giải thích như sau: Vì muốn văn bằng tiến sĩ tại Thái Lan tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước tiên tiến nên chúng tôi chủ trương không đào tạo nhiều và chọn đầu vào rất kỹ, chương trình học cũng vất vả nên những sinh viên giỏi và quyết chí học mới thi đỗ và học đến khi lấy được bằng. Thật ra Đại học Thammasat không phải là trường hợp cá biệt mà sự nghiêm túc đó rất phổ biến tại các nước.

Cái gốc của vấn đề là gì?

Thật ra, trong bài báo đăng trên Tia Sáng (năm 2003), tôi đã nêu mấy kiến nghị cụ thể để giải quyết vấn đề cả hai mặt cung và cầu. Hôm nay, tôi xin rút gọn lại thành một đề nghị gồm mấy điểm mà tôi cho là cơ bản nhất:

Thứ nhất, cần thống nhất phương châm cơ bản là văn bằng tiến sĩ đào tạo ở VN phải tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước khác. Không thể cho rằng trình độ phát triển kinh tế, xã hội VN còn thấp thì phải chấp nhận văn bằng có giá trị thấp.

Thứ hai, nhà nước không giao chỉ tiêu đào tạo đến các viện, các truờng, và không tạo điều kiện cho quan chức đi học tại chức để lấy bằng tiến sĩ (Quan chức nhà nước chỉ cần có bằng ĐH, không xem học vị thạc sĩ hay tiến sĩ là tiêu chuẩn để đề bạt).

Thứ ba, tạm ngừng các chương trình đào tạo tiến sĩ tại các viện, các trường cho đến khi có chính sách mới, đồng thời tiến hành lập các hội đồng thẩm định gồm những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước với nhiệm vụ thẩm định, đánh giá tư cách đào tạo tiến sĩ của các truờng, các viện và các giáo sư. Công khai trên báo đài tên tuổi, thành tích khoa học của những thành viên trong các hội đồng thẩm định.

Thứ tư, sau chừng nửa năm hoặc một năm hoạt động của các hội đồng thẩm định, công bố danh sách các trường, các viện và tên các giáo sư đã qua thẩm định và được thừa nhận có tư cách đào tạo tiến sĩ. Các cơ quan nầy được phép tiếp tục các chương trình đào tạo tiến sĩ.

Thứ năm, những nghiên cứu sinh đã được nhận vào các viện, các trường không đủ tư cách đào tạo tiến sĩ phải thi lại vào các viện, các trường có tư cách đó.

Thứ sáu, khuyến khích những “tiến sĩ” đã lấy bằng tại các cơ sở không đủ tiêu chuẩn mạnh dạn xin bảo vệ lại tại những viện, những truờng có đủ tiêu chuẩn đào tạo.

Trong tương lai, những tiến sĩ chân chính sẽ ghi thêm chi tiết về nơi được đào tạo trong danh thiếp hoặc trong các giấy tờ liên hệ. Và như vậy, những tiến sĩ không đủ tiêu chuẩn phải bảo vệ lại hoặc tự đào thải.

Những đề nghị này tập trung giải quyết trên căn bản vấn đề tiêu chuẩn của các cơ sở đào tạo và của các GS, PGS. Đây là vấn đề tế nhị và sẽ gặp phải sự phản kháng của những cơ sở và của những người không đủ tiêu chuẩn. Nhưng không thể có phương pháp nào khác để giải quyết tình trạng hiện nay. Những người có ý kiến khác cũng nên công khai thảo luận trên báo đài.

Chúng ta thử trở lại các nghi vấn nêu ở đầu bài này.

Dư luận phê phán “chợ luận án”, lên án người đi mua và bán luận án. Nhưng tôi lấy làm lạ là không ai đặt câu hỏi “làm sao những người mua luận án đã bảo vệ thành công và lấy bằng tiến sĩ"? Họ đã bảo vệ tại đâu, ai ở trong hội đồng chấm luận án ấy? Làm sao nhờ người khác thi hộ để được ghi danh học tiến sĩ mà GS hướng dẫn sau đó không phát hiện được? Chung quy cái gốc vẫn là ở cơ sở đào tạo và ở người hướng dẫn làm luận án. Không giải quyết cái gốc này thì tình trạng vẫn như cũ.

Nếu đề án này được thực hiện thì mỗi năm, số người lấy được bằng tiến sĩ tại VN sẽ ít hẳn đi, nhưng đó là trạng thái bình thường ở giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước ta.

 Ít nhất là trong bộ máy nhà nước và trong giới doanh nghiệp, số người có bằng tiến sĩ ở VN nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản là nước đông dân hơn nhiều và có thu nhập đầu người gấp 75 lần VN. Đó là hiện tượng dị thường.

Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang có kế hoạch cải thiện chương trình đào tạo tiến sĩ. Đó là ý định tốt. Tuy nhiên, không thể chỉ sửa đổi các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan đến luận án, đến quy trình đánh giá luận án và đưa chỉ thị mới xuống các cơ sở đào tạo hiện nay là cải thiện được tình hình. Phải giải quyết cái gốc của vấn đề!

http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/01/533154/

 

           © http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net  Trần  Văn Thọ