Tác giả cám ơn các cháu:
Angel Ốc Sên, (đang làm việc ở Hà nội), Anh Thư,
(đang thực tập Cao học Luật ở Rome), Liên N. P.Eng,
(đang làm việc ở Hamilton, ON.) và Mai Hiên, (đang
học Cao học ở Trieste) đã đọc và góp ý.
I.
Việc học ở Âu Mỹ ngày nay
1. Học hỏi (Learning and inquiring):
2. Học hiểu (Learning and understanding):
3. Học hành (Learning and implementing):
4. Kinh nghiệm làm việc
II. Những điều nên giữ trong việc học ngày trước ở Á
đông
1. Biết những điều cần học
2. Biết chọn điều và chỗ để học
3. Biết ngành nghề để học
4. Biết dùng sự học
III. Thay lời kết
Ở Bắc Mỹ cũng như ở Âu châu, ba
kỹ năng được chú trọng nhất trong quá trình học tập
là "học hỏi," "học hiểu," và "học hành". Học xong,
ra trường, "kinh nghiệm làm việc" trở nên yếu tố
được chú trọng nhất. Những người đã theo học hết bậc
trung học ở Bắc Mỹ đều biết các yếu tố gần như là
căn bản này, nên bài viết chủ yếu dành cho các sinh
viên Việt Nam sửa soạn vào bậc đại học hay cao đẳng
ở Bắc Mỹ, mà không qua bậc trung học ở nơi đây.
I.
Việc học ở Âu Mỹ
ngày nay
1.
Học hỏi (Learning and inquiring):
Trước khi đến lớp, sinh viên phải đọc các sách và bài
viết (học ba tín chỉ, có thể phải đọc khoảng 150
trang, giòng đơn, chữ nhỏ) theo danh sách giáo sư
đưa ra trước buổi học, để thảo luận khi vào lớp. Khi
đọc, sinh viên cần xem xét các bài này ở từng điểm
quan trọng, dùng óc phê phán để nhận định những gì
các tác giả đưa ra đúng hay sai. Ðiều này đòi hỏi
sinh viên phải đọc kỹ mà nhanh (để có thể đọc hết
toàn bộ), nhớ các điểm cần thiết (biết phân tích để
biết và nhận ra các điểm quan trọng), và có óc phê
bình đúng đắn.
Khi vào lớp, sinh viên không chỉ nghe giáo sư giảng
suông rồi ghi chép để về học thuộc lòng, mà phải
biết đặt câu hỏi, đào rộng và sâu hơn các bài đã
đọc. Nên đặt câu hỏi với giáo sư, và cả với bạn học
cùng lớp, để xem những người này suy nghĩ ra sao.
Nhưng hỏi không chỉ để hỏi, nên chúng tôi đã không
dùng chữ "questionning." Hỏi để dựa vào câu trả lời
mà tìm hiểu và tra cứu thêm, thành ra chúng tôi dùng
chữ "inquiring" để nói đầy đủ hơn ý nghĩa của việc
học hỏi.
Đặt câu hỏi là một kỹ năng cần rèn luyện. Trong bước
đầu, câu hỏi có thể còn vụng về, thiếu chiều sâu,
không nêu được một cách chính xác những điểm mình
thắc mắc. Nhưng nếu sinh viên cố gắng hỏi nhiều, sẽ
quen dần và rồi sẽ tìm được cách hỏi tốt nhất để
hiểu rõ vấn đề hơn, để tìm thêm dữ kiện, hoặc để
thảo luận, phục vụ cho mục đích học tập của mình. Để
làm được điều này, sinh viên cần vượt qua mặc cảm là
"sao mình lại hỏi những câu ngớ ngẩn thế ?" hoặc
"chắc chỉ có một mình mình không hiểu nên mới hỏi."
Không nên xấu hổ, mà nên mạnh dạn hỏi, sau đó sẽ
quen dần dần. Từ đó, sinh viên sẽ nhận thấy việc đặt
câu hỏi giúp nhận thức thêm được các điều quan
trọng, biết rõ thêm vấn đề đang học, đặc biệt là đối
với những người đang phải học bằng một ngôn ngữ xa
lạ, không phải tiếng mẹ đẻ của mình.
Khi nhận được câu trả lời, sinh viên cũng cần xem xét
liệu câu trả lời có đáp ứng những điều mình đang
thắc mắc hay không. Nếu còn vướng mắc, sinh viên nên
chọn lời, chọn lúc mà hỏi thêm và hỏi một cách thành
thật. Tốt nhất, nên đặt những câu hỏi ngắn gọn mà
đầy đủ những ý muốn hỏi. Ðôi khi, có người đặt câu
hỏi (nhất là trong các buổi hội thảo) chỉ nhằm phô
cái hiểu biết của mình chứ không hỏi để được giải
đáp. Một câu hỏi dài, có thể làm loãng đi vấn đề mấu
chốt cần được giải đáp. Nên trong lúc học, cần tránh
cách đặt câu hỏi như thế.
Hầu hết các giáo sư ở Bắc Mỹ và Âu châu không nghĩ là
học trò đang cố gắng “truy” mình, nên thường không
thấy khó chịu khi học trò đặt câu hỏi. Họ sẵn sàng
trả lời: "Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này - vấn
đề sinh viên nêu ra - để tôi suy nghĩ, và trả lời
sau." Và họ sẽ tra cứu để tìm ra câu trả lời.
Nhiều giáo sư thậm chí còn vui mừng khi nhận các câu
hỏi như thế, vì nhờ chúng mà biết thêm được một khía
cạnh mới của vấn đề chưa hề thấy hay nghĩ đến. Do
đó, các giáo sư hay thầy, cô rất quý trọng những
sinh viên tham gia tích cực vào việc học bằng cách
đặt nhiều câu hỏi và biết lắng nghe câu trả lời.
2.
Học hiểu (Learning and understanding):
Là việc tìm hiểu đến nơi, đến chốn một cách đúng đắn
những điều đang học, chứ không chỉ nhằm thuộc lòng
mà thôi. Một khi đã hiểu được vấn đề, sinh viên sẽ
nhớ lâu hơn. Thêm nữa, sinh viên có thể dựa trên sự
hiểu biết này để phân tích, tìm hiểu những vấn đề
khác có liên quan đến điều đã học. Từ đó phát huy
khả năng nghiên cứu và tự học, vốn là những khả năng
rất có ích cho bản thân khi ra làm việc.
Hiểu một vấn đề có nhiều trình độ, thứ bậc khác nhau.
Có thể hiểu đại khái, hiểu sơ sơ, đến hiểu để áp
dụng được, rồi hiểu rõ, hay hiểu thấu đáo để giảng
dạy lại được. Tùy vào sự liên quan của một vấn đề
với việc học của mình, mà người học có thể tìm hiểu
đến một trình độ nào đó. Có người chỉ cần tìm hiểu
môn “xác suất trong thống kê” đến mức áp dụng được
để dùng trong việc khảo cứu nền giáo dục cấp tiểu
học ở một nơi nào đó. Nhưng người học ngành bảo hiểm
lại cần hiểu thấu đáo về xác suất thống kê. Người
học để ra làm chuyên viên du lịch và người học để
lái tàu cận duyên đều cần hiểu về thời tiết, nhưng
chắc chắn là sự đòi hỏi về trình độ hiểu biết thời
tiết của hai người khác hẳn nhau.
Ở Bắc Mỹ, vì các đại học thường áp dụng hệ thống tín
chỉ, nên sinh viên học chung một lớp, có thể có
nhiều trình độ khác nhau: người gần đầy đủ số tín
chỉ để ra trường, người mới vào học. Nên trong lớp
học Kinh tế nhập môn (Introduction to Economy) bên
cạnh những người sẽ chuyên về kinh tế (Major in
Economy), học rất hăng say, lại có những người chỉ
lấy môn kinh tế là chuyên môn phụ (Minor in Economy)
và cũng có những sinh viên chọn môn này như một tín
chỉ tự chọn (elective credit) để có đủ số tín chỉ ra
trường. Vì thế người học cũng nên tìm hiểu bạn cùng
lớp, nhằm định cho mình trình độ cần hiểu cho môn
đang học, không phải tự thúc hối phải học hết sức
mình một môn học phụ, hay học cầm chừng như người
khác, để rồi cuối cùng không hiểu được đúng mức cần
thiết. Ðiều quan trọng cần ghi nhớ là học để hiểu,
và đúng mức mình cần, chứ không phải chỉ học thuộc
lòng mà thôi.
3.
Học hành (Learning and implementing):
Là việc đem đời sống vào trong việc học và đồng thời
đem việc học ứng dụng vào đời sống. Không phải đến
khi học xong, sinh viên mới có thể đem những điều đã
học ra ứng dụng vào công việc làm, vào đời sống hàng
ngày, để nhờ vào áp dụng lý thuyết đã học, mới hiểu
thêm ra, và mới lãnh hội được cái hay, cái đặc biệt
của điều đã học. Ngay trong quá trình học, sinh viên
đã phải có những va chạm thực tế với đời sống. Ví
dụ, ngay trong chứng chỉ nhập môn về Thương mại (như
Introduction to Business) tại nhiều đại học, nhiều
bài tập đã cho sinh viên các dữ kiện hết sức thực tế
và cập nhật như: lãi suất ngân hàng, tiền thuê bao
điện thoại thương mại, giá tiền quảng cáo của từng
đài truyền hình… trong ngay thời điểm đó. Khi làm
bài, đôi lúc sinh viên phải đến một công ty đang
hoạt động để tìm hiểu những vấn đề như: đường lối
cùng mục tiêu, phương pháp quản trị, cung cách làm
việc, quá trình vận chuyển nguyên liệu và hàng hoá
trong công ty đó. Trong quá trình học, sinh viên còn
có cơ hội đi tham quan các công ty thương mại, các
hãng xưởng trong thành phố, và còn được khuyến khích
trao đổi với ban giám đốc hay các nhân viên để tìm
hiểu thêm.
Nhiều đại học còn đi xa hơn, đưa ra một chương trình
kết hợp giữa học và làm (co-op). Sinh viên học ở
trường trong vòng 8 tháng, sau đó đi thực tập (có
lương) trong 4 hay 8 tháng. Chỗ thực tập có thể gần
nhà, gần trường, hay ở một thành phố khác. Trong
thời gian thực tập, sinh viên được quy định làm một
số việc thường ngày như một nhân viên bình thường
trong công ty đó. Thời gian đầu, có người hướng dẫn
để sinh viên học thêm. Nhưng trong các lần thực tập
sau, sinh viên phải tự mình làm được việc. Trong lúc
thực tập, sinh viên được chấm điểm theo khả năng
nhận thức, theo tinh thần làm việc chung; và điểm
này được tính vào khóa học. Sinh viên cứ vừa học vừa
thực tập như thế trong bốn hoặc năm năm, và thường
có viêc làm ngay sau khi ra trường, đúng theo ngành
nghề chuyên môn đã học. Nhiều gia đình nhờ có con
theo chương trình này mà không phải lo lắng đến học
phí, và chi phí lúc theo học. Khi trở về trường sau
mỗi lần đi thực tập, sinh viên phải nộp một bài viết
khoảng một ngàn chữ, ghi lại kết quả đã thu được ở
nơi làm việc. Trong bài này, sinh viên có thể nêu lý
do để đề nghị trường nên hay không nên tiếp tục gởi
sinh viên khác đến nơi làm việc này để thực tập.
Một số trường danh tiếng
thường tổ chức cho sinh viên năm cuối một thời gian
thực tập trong nước hoặc ngoài nước. Sinh viên học
luật trường Ðại học Montréal, muốn tốt nghiệp Cao
học Luật về quốc tế công hay tư pháp có thể đi thực
tập ở Luxembourg, La Haye (Hà Lan), hay Rome (Ý).
Sinh viên Cao học thương mại ở đại học Western
Ontario (Richard Ivey School of Business) được sang
một số nước Ðông Âu để thực hiện các đề án kinh
doanh nhằm trau dồi kiến thức và trao đổi kinh
nghiệm làm việc. Nhờ điều này mà ngay khi ra
trường, sinh viên đã có sẵn một kinh nghiệm làm việc
phong phú.
Trong những chương trình dạy sinh ngữ như Pháp văn, các
trường đại học British Columbia, Saskatoon, Western
Ontario, Windsor v.v.. có tổ chức các lớp hè ở Nice,
ở Aix en Provence, và ở Strasbourg nhằm giúp sinh
viên có dịp sống ngay trong môi trường nói tiếng
Pháp. Trường cao đẳng Humber ở Toronto, tổ chức lớp
Pháp văn ở La Pocatière, dành cho học sinh cuối năm
trung học; đại học Western Ontario tổ chức ở Trois
Pistoles, cho sinh viên và người lớn, nhằm trau dồi
Pháp văn, nghe, viết và nói. Cả hai thành phố này
nằm trong tỉnh Québec. Các học sinh, sinh viên tham
dự các lớp học này có thể được chính phủ đài thọ
toàn bộ học phí và chi phí ăn ở trong sáu tuần lễ
của khóa học. Ðổi lại, người tham dự phải cam kết
dùng toàn tiếng Pháp trong suốt thời gian theo học.
Tất cả những điều trên cho ta thấy rõ mức độ chú
trọng đến thực hành trong khi học, và những người có
trách nhiệm về công tác giáo dục tạo mọi điều kiện
thực hành cho sinh viên và học sinh.
Đôi khi muốn đạt được những tiêu chuẩn để được chọn vào
một trường dạy ngành nghề mong muốn, sinh viên phải
làm một số công việc thiện nguyện để có thêm kinh
nghiệm. Đối với sinh viên học xong cử nhân muốn dạy
trung học hay tiểu học thì phải học thêm một năm ở
trường Sư phạm để lấy bằng Cử nhân Giáo dục. Nhiều
sinh viên đã tình nguyện xin làm việc không nhận thù
lao ở các trường trung học hoặc tiểu học trong vùng,
với vai trò là trợ giáo, hoặc phụ tá huấn luyện viên
thể thao, để tự tạo điều kiện hầu được nhận vào
trường sư phạm. Sinh viên muốn vào học ngành dược
thường tìm việc làm thêm ở nhà thuốc trong siêu
thị, hay phòng phát thuốc ở bệnh viện. Ngay trước
khi vào đại học, học sinh năm cuối trung học cũng
tìm việc làm trong ngành, nghề mà họ dự định theo
học.
Ở Việt nam, có sinh viên phải học hai năm đại
học ngành Thương mại, mới biết Ngoại thương là gì.
Có sinh viên học ba năm Y Dược mới thấy ngành không
hợp với mình… Thành ra giúp học sinh tham gia thực
hành sớm từ bậc phổ thông sẽ giúp các em hiểu được
thấu đáo những đặc điểm và khó khăn thực tế của
ngành muốn theo đuổi, từ đó đánh giá được mức độ phù
hợp và lòng yêu thích của mình đối với ngành nghề,
để có quyết định đúng đắn.
4.
Kinh nghiệm làm việc
Kinh nghiệm giúp ta hoàn thành một công tác hay một
nhiệm vụ trong thời gian thích hợp, và giúp ta thấy
trước những khó khăn có thể sẽ gặp; từ đó có thể dự
trù thời gian, tính toán cách làm, nhằm giúp công
việc giao phó được hoàn thành đúng thời hạn, không
bị vấp váp và không tạo ra những khó khăn, trở ngại,
cho các khâu khác... Những người đi làm hãng xưởng
cũng có thể thâu thập những kinh nghiệm áp dụng được
trong công việc văn phòng như: biết ứng phó với
những khó khăn, biết suy nghĩ và tính toán để khỏi
phạm những lỗi lầm có thể tránh được.
Nếu hiểu được tính trọng thực dụng của Âu Mỹ
(pragmatism), ta sẽ thấy kinh nghiệm làm việc quan
trọng không kém bằng cấp có được từ việc học. Kinh
nghiệm làm việc được xem xét và nhận định một cách
rộng rãi, để cho thấy cá tính của người đi tìm việc.
Thí dụ, một người học Quản trị Kinh doanh có kinh
nghiệm đi làm chiêu đãi ở nhà hàng hay quán ăn trong
thời gian còn đi học. Trong công việc này, có phần
giới thiệu món đặc biệt trong ngày với khách, đó là
cách ứng xử với người khác, nói thế nào, cử chỉ thế
nào để khách cảm thấy vui vẻ, hài lòng, và tin mình.
Tập cách trả lời sao cho những khách khó tính không
gây gổ, không giận dữ. Khi làm việc chính thức trong
ngành, các kinh nghiệm này sẽ được đem ra áp dụng để
thuyết phục đồng nghiệp (hay người cộng sự) chấp
nhận đề nghị của mình, hoặc để trình bày ý kiến, ý
tưởng của mình môt cách minh bạch, và có hiệu quả.
Nếu chỉ chú tâm vào việc học, lo học thật giỏi, đậu
cao, lấy bằng, mà không có kinh nghiệm làm việc, có
thể sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm việc.
Khi làm việc trong lúc còn
đi học, sinh viên, học sinh nên để ý tìm người,
thường là cấp điều hành trực tiếp của mình, để sau
này có thể xác nhận công việc mình đã làm, và có thể
chứng nhận khả năng hay tính tình của mình ở nơi làm
việc. Thông thường các nơi nhận đơn xin việc đòi hỏi
phải có hai hay ba người như thế (gọi là
references) và các nơi này sẽ tiếp xúc với
những người đó khi họ thấy có thể thu nhận mình vào
làm cho họ. Vì vậy cần cập nhật hóa thông tin về
những người đó như phương vị, số điện thoại, địa chỉ
điện thư, để khỏi bị bất ngờ. Nên cẩn thận liên lạc
trước với những người này và xin phép để tên của họ
vào thư hay đơn xin việc.
Học hỏi, học hiểu, và
học hành cộng với kinh nghiệm làm việc
sẽ giúp người đi học có được việc làm thích hợp với
khả năng và nguyện vọng của mình, cũng như được
hưởng mức thù lao tương xứng. Tuy nhiên, những điều
này vẫn có thể chưa giúp được người đi học cảm thấy
đã làm trọn vẹn thiên chức của mình, nhất là những
người đã hấp thụ phần nào nền văn hóa Á Đông, vốn
trọng sự hài hòa trong cuộc sống và việc làm. Đối
với những người này, ngoài những yếu tố trong gia
đình riêng, nhỏ của mình và đại gia đình (ông, bà,
cha, mẹ và anh em đôi bên) người học nên biết thêm
cách học, chọn điều và chỗ phải học, ngành nghề học,
và lựa cách áp dụng những điều hay, điều phải đã
học và tìm hiểu được.
II.
Những điều nên giữ trong việc học ngày trước
ở Á đông
1.
Biết những điều cần học
Chuyện xưa kể về Công Minh
Tuyên, ba năm ở nhà thầy mà không mấy khi thấy đọc
sách. Thày Tăng tử hỏi tại làm sao, Công Minh Tuyên
thưa:
- Thưa thầy, con vẫn học. Con
thấy thầy đối với song thân, lúc nào cũng hiếu
thuận, hòa nhã; đối với bạn bè hết sức cung kính, lễ
độ; ở chỗ làm việc, thầy nghiêm trọng mà rất khoan
dung kẻ dưới. Con luôn luôn ráng theo học các điều
ấy mà vẫn chưa được. Con đâu dám cứ ở cửa nhà thầy
mà lười biếng không chịu học. (Thiết Uyễn, theo
Cổ học Tinh hoa, I, trang 118)
Như thế, tự đời trước cũng đã có người biết cái cần
phải học và học cốt để làm người, chứ không chỉ nhắm
vào việc đi thi, ra làm quan. Ngoài ra còn gương
Doãn Thuần, bỏ thi mà về, vì đề thi "Chu Nguyên Hựu
chư thần" (giết những kẻ bề tôi đời Nguyên Hựu)
không phù hợp với luân lý và lẽ công bằng. Người
biết học như thế cũng nhờ có bà mẹ đã dám nói "ta
muốn con lấy điều phải mà nuôi ta ..." (Tống sử
Doãn Thuần truyện, theo Cổ học Tinh hoa, II, trang
22).
2. Biết chọn điều và chỗ để học
Thầy Mạnh tử được người
theo Nho giáo suy tôn là một bậc đại hiền. Khi còn
nhỏ, nhà ở cạnh nghĩa địa, thấy đám tang, về nhà
cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy vậy,
mới dọn nhà ra gần chợ. Tại đây, thấy người ta buôn
bán, thầy Mạnh cũng tập chơi trò buôn bán điên đảo.
Bà mẹ lại phải dọn nhà đến ở cạnh trường học. Hằng
ngày trông qua trường, thầy Mạnh cũng bắt chước học
trò, mang sách, vở để học và học tập lễ phép. Nhờ bà
mẹ biết tạo khung cảnh tôn trọng việc học mà về sau
thầy Mạnh trở nên bậc đại hiền. (Liệt nữ truyện,
theo Cổ học Tinh hoa, I, trang 146-147)
Nhưng không chỉ nhắm vào việc học ở trường học hay
trường đời. Phải có can đảm như Từ Tuân Minh, sau
khi bôn ba theo học không biết bao nhiêu bậc thầy
tiếng tăm lừng lẫy, mà vẫn thất vọng vì không tìm
được một người thầy nào quán triệt nghĩa lý. Cuối
cùng phải bỏ về. Bạn đồng học là Ðiền Mãnh Lược
khuyên nên gia tâm và trì chí, chứ đừng nay mới đến,
mai lại đi, không sao học cho thành được. Từ Tuân
Minh chỉ vào "tâm" mà trả lời "ta nay mới biết chỗ ở
đích thực của ông Thầy." Từ đó hết sức tự
suy nghĩ và chuyên chú tự học lấy một mình. Sau trở
thành một bực danh nho. (Ngụy thư Từ Tuân Minh
truyện, theo Cổ học Tinh hoa, II, trang 72-74).
3. Biết ngành nghề để học
Khi vua Nghiêu đi thăm đất
Hoa, viên quan coi đất chúc nhà vua có lắm con trai.
Vua Nghiêu trả lời: "Xin đừng chúc thế, lắm con trai
có nhiều nỗi lo sợ!" Viên quan nói :
- Nhà vua nói như thế, thật là
một bậc chí nhân. Nhưng trời sinh ra người, mỗi đứa
cho làm một việc, thì còn lo sợ gì? (Trang tử
tuyết, theo Cổ học Tinh hoa, I, trang 141-143).
Suy ra thì đời trước, người ta
vẫn hiểu là trong thiên hạ, mỗi người làm một việc.
Chu toàn việc của mình thì xã hội yên vui. Không
phải ai cũng làm bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên điện
toán, hay cố vấn tài chính. Có người vui nghề nông,
người chuộng ngành mộc, kẻ ưa xây cất nhà cửa, hoặc
thích sửa chửa điện lạnh, máy sưởi. Trăm nghìn ngành
nghề.
Ngay ở Paris, muốn học
thành thợ làm bánh mì, bánh ngọt cũng mất từ hai đến
bốn năm sau bậc trung học. Ở Trung quốc, có Ðại học
Nông nghiệp Quốc gia nằm trong Viện đại học Hồ Nam
dạy tất cả công việc đồng áng, từ cá thể đến qui mô
cả nước. Tại Canada, các ngành nghề cắm hoa, làm
tóc, buôn bán nhà đất ... đều phải học ở trường cao
đẳng, học trình từ hai đến bốn năm, vừa học, vừa
làm, thi cử theo đúng quy trình. Có nhiều người tốt
nghiệp ngành làm tóc, hành nghề ba, bốn năm, đi dự
các cuộc thi quốc tế, nhận huy chương, giải thưởng,
bằng khen ... Thành ra bậc làm cha mẹ, nhiều khi
muốn con học ngành này nghề nọ, chắc cũng nên khuyên
con chọn ngành nghề nào, mà sau này, mỗi sáng thức
dậy, đều hăng hái, vui vẻ đi làm việc. Như thế mới
thật là mong điều phải cho con cái.
4. Biết dùng sự học
Khổng Miệt và Bật Tử Tiện
học chung với nhau và ra làm quan cùng thời, cùng
phương vị. Khổng tử đến thăm Khổng Miệt và hỏi "từ
khi ra làm quan, được những gì và mất những gì?"
Khổng Miệt mất ba điều mà không thêm được gì: việc
quan bận rộn, không ôn tập nên quên đi các điều đã
học; lương bổng ít, không đủ để chu cấp người thân
nên mất đi họ hàng; thời giờ eo hẹp, không thăm
viếng được ai, nên xa dần bạn bè. Khổng Tử nghe nói
không bằng lòng. Khi qua thăm Bật Tử Tiện, cũng hỏi
như thế. Bật Tử Tiện vui mừng mà thưa:
- Từ khi ra làm quan, chưa mất
điều gì mà đã được ba điều. Có cơ hội áp dụng điều
đã học, nên việc học càng thêm rõ ràng. Bổng lộc
không nhiều, nhưng cũng dôi ra được chút ít để chia
sẻ với họ hàng, nên ngày càng thêm thân. Thời giờ eo
hẹp, nhưng cũng nhín được đôi chút, thăm người đau,
viếng người chết, nên bạn bè thân hơn. (Gia ngữ,
theo Cổ học Tinh hoa, I, trang 25)
Cũng cùng hoàn cảnh, nhưng
hai thái độ, hai cách ứng xử trái ngược hẳn nhau.
Người được, người mất, khác nhau ở chỗ biết hay
không biết áp dụng việc học vào đời sống. Ðiều này,
có phải do thầy hay cô giáo dạy không ? Hay là do
nơi người học, biết cách học, biết cách áp dụng, và
đã dùng việc học đúng chỗ ? Nên có học, có biết, mà
cần phải tùy lúc, tùy việc, và tùy chỗ mà dùng việc
học, áp dụng cái hiểu biết của mình, không nhất
thiết phải lệ thuộc vào lời người xưa, hay kinh điển
cũ. Cũng như người nước Lỗ, biết chuyện ông Lỗ Trọng
Liên, muốn học theo điều phải, không bắt chước cách
làm, mà vẫn làm được. (Lã thị Xuân Thu, theo Cổ
học Tinh hoa, I, trang 171-172)
III. Thay lời kết
Việc học tiên tiến ở các nước Âu
Mỹ đòi hỏi sinh viên phải có những kỹ năng học hỏi,
học hiểu và học hành. Những điều này giúp người học
thành công trên đường đời, tạo dựng sự nghiệp, có
được cuộc sống sung túc, và có khả năng cũng như cơ
hội đóng góp như một thành viên tích cực của xã hội.
Ngoài ra, người học còn phải biết ứng dụng đúng đắn
tinh thần của sự học tập truyền thống (của thời
trước), đòi hỏi người đi học phải biết cách học, và
còn phải biết dùng sự học đúng chỗ. Làm được như
thế, người có học vấn sẽ giữ được trí tuệ vừa nhẹ
nhàng lại vừa phong phú, giữ cho tinh thần được an
vui, thoải mái, xây dựng cùng gìn giữ hạnh phúc cho
cuộc sống của mình cũng như của mọi người trong gia
đình và trong xã hội. Biết học và biết dùng sự học
tiên tiến lẫn truyền thống như thế mới thực sự đúng
với chức năng con người và chu toàn bổn phận làm
người.
Dien
Tran, Ph.D.
Tài liệu trích dẫn từ:
Nguyễn văn Ngọc và Trần Lê Nhân. 1962. Cổ học Tinh
hoa. Tập I và tập II. Sài gòn: Nhà Xuất Bản Thọ
Xuân. Cơ sở Xuất bản Ðại Nam in lại, không đề năm.
|