|
Ý kiến về đào tạo sau đại học ở Việt
Nam
Qua nhiều lần theo dõi các cuộc thảo luận về đường hướng giáo dục
hậu đại học ở VN, người viết bài này nhận
thấy vài đồng nghiệp trong nước có một số
hiểu lầm nhỏ của về sự phân biệt giữa các văn bằng ở các
nước như Úc, Anh và Mỹ. Là một người dạy học và nghiên cứu
khoa học ở Úc và Mỹ trong nhiều năm qua, tôi
muốn trình bày và làm sáng tỏ một vài điểm về
hệ thống đào tạo đại học và hậu đại học và văn bằng ở Úc,
để góp phần vào việc thảo luận trong nước.
Hệ thống giáo dục đại học ở Úc giống Anh hơn là Mỹ, ở Úc, hệ thống
đào tạo đại học khá đơn giản. Sau khi học xong lớp 12, học
sinh phải trải qua một kỳ thi tốt nghiệp
trung học. Tất cả các học sinh đều được cấp
chứng chỉ tốt nghiệp trung học, với một số điểm (hay hạng) mà học
đạt được trong kỳ thi. Số điểm này sẽ quyết định học sinh có
thể xin học ngành gì ở bậc đại học. Chẳng hạn
như, muốn theo học các ngành y hay luật khoa,
học sinh phải có số điểm cao nhất. Các ngành khác như
kỹ thuật, kinh tế, khoa học thường đòi hỏi học sinh phải có
điểm trên trung bình. Các ngành văn chương,
toán và y tá chỉ đòi hỏi học sinh có điểm
trung bình. Các trường đại học lớn, lâu đời và có uy tín thường
đòi điểm cao hơn các trường nhỏ và mới. Do đó, một học sinh
có thể có đủ điểm để vào học Y khoa ở trường
A, nhưng lại chỉ đủ điểm học kỹ sư ở trường
B. Điều cần chú ý ở đây là, không như ở Việt Nam, học sinh Úc
không phải thi vào đại học sau khi đã thi xong trung học; số
điểm thi trung học là yếu tố quyết định được
vào đại học hay không.
Thời gian học bằng cử nhân (bachelor) cho các ngành khoa học cơ bản
(sinh học, vật lý, hóa học, toán v.v...), khoa học nhân văn, văn
chương thường là ba năm. Tuy nhiên các ngành như kỹ sư điện,
dược và luật khoa thường từ 4 tới 5 năm. Tùy
theo ngành học, sau khi xong
chương trình cử nhân, tất cả các sinh viên được cấp bằng BA
(Bachelor of Arts), BSc (Bachelor of Science)
hay BE (Bachelor of Engineering).
Riêng ngành y khoa, các sinh viên thường phải học 6 năm và làm tập
sự (internship, residence) 1-2 năm trong bệnh
viện để được cấp bằng cử nhân. Những sinh
viên này được cấp hai bằng cử nhân viết tắt là M.B
(bachelor of medicine) và B.S (bachelor of surgery). Cần được nói
thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng
danh xưng của họ là "bác sĩ" (doctor).
Những sinh viên xuất sắc thường được khuyến khích học thêm một năm
nữa và tập làm nghiên cứu ở phân khoa. Sau khi xong một năm,
học sinh sẽ phải viết một luận án tốt nghiệp,
và được cấp bằng cử nhân nhưng có kèm theo
chữ "honours" như BA (Hons), BSc (Hons), BE (Hons) hay MB BS
(Hons).
Mô hình đào tạo hậu đại học ở Úc được kết hợp từ hai mô hình của Anh
và Mỹ. Và vì thế, nó có vẻ khá đa dạng, nhưng rõ ràng. Phần lớn các
ngành khoa học và kỹ thuật, có ba chương trình đào tạo :
Graduate Diploma, Masters và Doctorate
Graduate diploma thường dành cho :
(a) Những người muốn theo học các môn học mà không cùng môn học ở
bậc cử nhân mà họ đã có (chẳng hạn như sinh
viên đã có bằng cử nhân về toán, nhưng muốn
theo học hậu đại học ngành quản lý).
(b) Những người không đủ khả năng hay điều kiện học bậc masters.
Thời gian học graduate diploma thường từ 1
tới 2 năm. Tuy nhiên phần lớn là 1 năm. Sinh
viên không cần làm luận án tốt nghiệp.
Ngày nay, với sự cạnh tranh giữa các trường đại học càng ngày càng
gay gắt, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít đi
dần, vì phần đông họ tìm cách học chương
trình masters. Thật ra, phân nửa các môn học
của Graduate Diploma là nằm trong chương trình học Masters.
Chương trình học Masters, cũng giống như chương trình Graduate
Diploma, là nhằm vào mục tiêu đào tạo những chuyên viên kỹ
thuật cho các cơ quan chính phủ và công ty.
Sau khi tốt nghiệp, những người này phải có
một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng, có thể đáp ứng
cho nhu cầu thực tế của một cơ quan hay công ty. Chương trình
Masters thường dành cho những sinh viên đã có
bằng cử nhân cùng ngành. Tuy nhiên, tùy theo
trường hợp cá nhân và kinh nghiệm, các sinh viên cũng
có thể theo học các ngành chuyên môn khác với văn bằng căn
bản cử nhân mà họ đã có.
Ngày nay, sinh viên trong các ngành khoa học thuần túy cũng có
thểđược nhận vào học bên các ngành kinh tế hay xã hội học. Chương
trìnhmasters thường kéo dài từ 1 tới 2 năm. Nhưng cũng có trường dạy
MBA (Master of Business Administration) trong
vòng 1 năm, với một chương trình học rất nặng
và đòi hỏi sinh viên phải học ngày học đêm. Hầu như
không có sinh viên cử nhân danh dự (honours) nào theo học
Masters hay Graduate Diploma.
Chương trình học tiến sĩ (Doctorate) là nhằm mục đích đào tạo những
khoa học gia chuyên nghiệp (professional scientists), những
chuyên viên nghiên cứu cao cấp cho các công
ty kỹ nghệ và các cơ quan nghiên cứu thuộc
chính phủ. Những người này đóng vai trò then chốt cho nền
khoa học của Úc và là nguồn cung cấp giảng dạy cho các trường
đại học. ở Úc, có ba dạng tiến sĩ riêng biệt:
PhD (doctor of philosophy) cho tất cả các
ngành (kể cả y khoa), MD (doctor of medicine) riêng cho y
khoa, và DSc (doctor of science) cho tất cả các ngành khoa
học.
Về chương trình đào tạo PhD : ở Úc, không giống như chương trình
masters (mà sinh viên phải tham dự học trong lớp, tức
course-work và
nghiên cứu), học sinh tiến sĩ không học course-work mà chỉ làm
nghiên cứu. Dĩ nhiên, trong thời gian nghiên
cứu cho luận án, sinh viên phải dự những buổi
thảo luận khoa học trong trường hàng tuần, phải tham gia
các buổi tham luận này, phải dự những hội nghị chuyên ngành
trong nước, phải dự ít nhất là một hội nghị
quốc tế chuyên ngành v.v. Những sinh viên
được nhận vào học PhD thường là những người :
(a) Đã có bằng masters hay có kinh nghiệm research;
(b) Cử nhân hạng danh dự như đề cập trên;
(c) Cử nhân thường, nhưng đã làm nghiên cứu ít nhất là một hai năm.
Thời gian học thông thường từ 3 tới 6 năm. Sinh viên phải có ít nhất
là 2 hay 3 bài báo đăng trên các tạp chí có peer-review để có
thể bảo vệ luận án. Luận án thường được hai
khoa học gia có uy tín trong nước(thông thường từ các trường đại học
khác) và một khoa học gia uy tín ngoài Úc
duyệt xét và phê chuẩn. Thời gian duyệt xét luận án có thể từ
6 tháng tới 1 năm.
Chương trình đào tạo MD chỉ dành cho các sinh viên đã tốt nghiệp bác
sĩ y khoa (MB BS). Mục đích của chương trình học này là huấn
luyện cho các bác sĩ cách nghiên cứu khoa học
lâm sàng (clinical medicine) hơn là khoa học
cơ bản (basic science). Thông thường, sinh viên phải làm
một hay hai cuộc nghiên cứu lâm sàng (clinical studies) và sẽ
viết luận án dựa trên các nghiên cứu nàỵ
Chương trình học MD thông thường là 2 cho tới
3 năm (ngắn hạn hơn PhD). Tuy nhiên, trên lý thuyết, MD
được xem là một văn bằng PhD (hậu đại học) của medicine, khác
với MD của Mỹ là một văn bằng căn bản về y
khoa. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã
có khuynh hướng bỏ chương trình học này và nhập vào chương
trình học PhD.
Ngoài ra, các sinh viên đã có bằng MB BS cũng có thể theo đuổi học
chuyên ngành (specialist training) thay vì học PhD hay MD.
Chương trình huấn luyện specialist training
không do đại học đảm nhận, nhưng được các
bệnh viện đào tạo. Thời gian thường từ 4 tới 6 năm, và các
bác sĩ phải trải qua một cuộc thi lý thuyết và thực hành (lâm
sàng) được xem là gay go nhất trong đời làm
bác sĩ. Sau khi đỗ cả hai kỳ lâm
sàng và lý thuyết, các bác sĩ sẽ được kếp nạp vào các trường chuyên
môn với chức vụ Fellowship of the Royal Australian College of
Physicians (FRACP), Fellowship of the Royal Australian
College of Surgeons (FRACS) v.v... ở Anh,
những danh xưng tương đương này là FRCP,
FRCS, v.v...
DSc là một văn bằng có tính cách danh dự. Văn bằng này được cấp cho
những khoa học gia (những người đã có PhD hay MD) đã bỏ ra một thời
gian dài để theo đuổi một đề tài khoa học trong cuộc đời họ.
Thí sinh không "học" như các sinh viên PhD,
mà chỉ viết luận án về một đề tài chuyên môn,
dựa vào những bài báo (thông thường là khoảng 20 bài trở
lên) đã được công bố trên các tạp chí khoa học. Trên lý
thuyết, văn bằng DSc ở Úc và Anh được xem là
cao hơn văn bằng PhD. Nhưng trong thực tế,
văn bằng này không nhận được một sự kính nể bằng những người
PhD nhưng đã có nhiều thành tích cao trong nghề nghiệp. Ngày
nay, rất hiếm sinh viên theo học DSc.
Không nên nhầm lẫn giữa văn bằng DSc của Úc và của Mỹ. ở Mỹ, văn
bằng cao nhất là tiến sĩ, cụ thể là PhD hay
tương đương. Những văn bằng tương đương PhD ở
Mỹ thường gặp là DSc, EdD (doctor of education),
DrPH (doctor of public health), DrEng (doctor of
engineering). Vài trường, chẳng hạn như
Havard, họ gọi tiến sĩ của ngành public health
là DSc, trong khi đó ở các trường khác lại gọi là DrPH hay
PhD. Tương tự, ở trường đại học Boston, những
tiến sĩ về sư phạm được gọi là EdD, nhưng
phần lớn ở các trường khác thì lại được gọi là PhD. Văn bằng PhD
cũng được cấp cho các tiến sĩ về kỹ thuật (engineering),
nhưng có trường ở Mỹ lại gọi là DREng !
Bằng cấp là một hình thức tưởng thưởng cho quá trình học vấn của
sinh viên, học sinh. Bằng cấp không phải là
thước đo về khả năng nghiên cứu khoa học.
Trong thực tế, sau khi đã tốt nghiệp tiến sĩ, các sinh viên
còn phải làm việc, thực tập nghiên cứu với vai trò "hậu tiến
sĩ"
(postdoctoral fellow) từ 1 tới 3 năm trong các trung tâm nghiên cứu
hay trường đại học. Đây là thời gian mà nghiên cứu sinh phải
tranh thủ làm đêm ngày để công bố những công
trình mình đã làm trong khi học tiến sĩ nhưng
chưa có đủ thời gian công bố. Đối với một nhà khoa học,đây cũng là
giai đoạn quyết định chiều hướng nghiên cứu và bắt đầu một
sự nghiệp nghiên cứu khoa học độc lập của mình.
Chức vụ khoa bảng (academic position) như giáo sư (professor), phó
giáo sư (associate professor), v.v... cũng không nói lên
được trình độ và khả
năng làm khoa học. Những chức vụ khoa bảng có tính cách địa
phương và tùy thuộc một phần vào sự đóng góp của người làm
khoa học cho trường của họ. Ở
Úc, Anh hay Mỹ, tất cả các chức vụ giáo sư, phó
giáo sư, giảng sư (lecturer) đều do hội đồng của trường đại
học phong, chứ không phải do chính phủ như ở
các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Tiêu chuẩn được
đề bạt vào những chức vụ này rất khác nhau giữa các trường
đại học, và tùy thuộc vào nhiều yếu tố như số và chất lượng
các công trình nghiên cứu khoa học, thời gian
phục vụ tại trường, số lượng tiền tài trợ cho
nghiên cứu đã đạt được, tham gia vào cộng đồng v.v... và
v.v... Do vậy, giữ chức giáo sư của trường A không có nghĩa
là giáo sư đó sẽ được đương nhiên bổ nhiệm
cùng chức ở trường B. Về mặt ngoại giao và
với tính lịch sự, vị giáo sư đó vẫn được gọi bằng danh xưng
"professor". Một "visiting professor" cũng không đồng nghĩa
với một giáo sư thực thụ được bổ nhiệm qua
kênh chính thức (official channel).
Dĩ nhiên trong nghiên cứu khoa học không có biên giới quốc gia. Vì
thế, một người làm khoa học chuyên nghiệp và chân chính là
một khoa học gia quốc tế (international
scientist). Người đánh giá khả năng và trình
độ nghiên cứu của một khoa học gia không ai khác hơn là đồng
nghiệp trong và ngoài nước của họ, chứ không phải do một
trường đại học riêng biệt nào hay do bộ giáo
dục. Trong thực tế, chất lượng và số lượng
của những bài báo khoa học công bố trên các tạp chí khoa học uy
tín, nghiêm tÚc trên thế giới được xem là một thước đo về
trình độ làm khoa học và sự thành công trong
nghiên cứu của một khoa học gia. Lịch sử
đã chứng minh rằng nhiều bài báo được công bố bởi các sinh viên
chưa có bằng tiến sĩ, nhưng lại được đánh giá cao trong
chuyên môn.
Qua những bài báo này, mà người làm khoa học có thể xác định vị trí
của mình trong chuyên môn. Trong giới làm khoa học, sự kính
nể của đồng nghiệp dành cho một người làm
công tác khoa học không bao giờ dựa vào bằng
cấp của người đó, nhưng là dựa theo những công trình đã được
công bố, và thường được biểu hiện qua những lời mời tham dự
các hội thảo khoa học ngắn hạn, keynote
lecture, v.v...
Trong nhiều năm qua, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn, các nhà khoa học
ở Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng
vào kiến thức khoa học của nhân loại. Tuy
nhiên, những đóng góp này vẫn còn gói gọn trong các môn
và đề tài khoa học có tính hẹp. Quan trọng hơn nữa, so với
các nước trong khối ASEAN, đóng góp của các
nhà khoa học ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm
tốn. Tôi tin rằng với sự cải tổ giáo dục hậu đại học nhanh
chóng, hữu hiệu, và với một đầu tư đúng mức của nhà nước, các
nhà khoa học VN sẽ gây nhiều tiếng vang trên
trường khoa học quốc tế hơn nữa trong tương
lai.
Tôi đề nghị Việt Nam nên có hai chương trình đào tạo masters : một
chương trình nhắm vào mục tiêu huấn nghệ (vocational
training) và một chương trình nhắm vào nghiên
cứu (academic training). Chương trình huấn
nghệ nhằm mục tiêu đào tạo các chuyên viên cho các cơ quan nhà
nước và công ty, hãng xưởng kỹ nghệ. Các sinh viên chỉ cần
học hai năm và chú trọng vào các môn học có
tính thực tế, và với một luận văn tốt nghiệp
như hiện nay. Chương trình masters cho nghiên cứu nhằm mục đích
đào tạo những nhà nghiên cứu để sau này tiếp tục theo học
tiến sĩ (TS) hay dạy học trong các trường đại
học, cao đẳng. Sau hai năm học, sinh viên cần
phải trình một luận án tốt nghiệp. Tôi tin rằng với sự quan
tâm đúng mức, các sinh viên chương trình masters vẫn có thể
cống hiến các công trình nghiên cứu của họ
trên các tạp chí trong và ngoài nước.
Tôi cho rằng đặt ra một cái mốc thời gian cho chương trình đào tạo
tiến sĩ là không nên. Tôi cũng cho rằng thời gian (2 năm sau
khi đã có bằng masters như qui định hiện nay
ở VN) cần để bảo vệ luận án tiến sĩ
là tương đối ngắn. Thông thường, một sinh viên TS cần phải có một
năm làm quen với đề tài mình nghiên cứu, và
một năm để phát triển các lý thuyết, phương
pháp, kết quả v.v... Thời gian để viết báo cáo khoa học
và công bố những bài báo này cũng mất ít nhất là một năm.
Ở Úc và Mỹ, tôi biết
có vài sinh viên phải nghiên cứu cả 10 năm để có một văn bằng
PhD. Thời gian đào tạo tiến sĩ không nên dựa vào thí sinh đã
có bằng masters hay chưa, mà nên dựa vào sinh
viên đó đã hoàn thành cái luận án tới đâu.
Một sinh viên TS không thể tốt nghiệp nếu như đề tài mình
nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn.
Ngày nay, ở các nước phương Tây, văn bằng tiến sĩ (doctorate) được
coi là một giấy thông hành quốc tế (international passport)
để nghiên cứu khoa học. Vì thế, người có văn
bằng này phải xứng đáng là một nhà khoa học
chuyên nghiệp, có thành tích trên trường khoa học quốc tế, và
có thể làm việc trong bất cứ cơ quan nghiên cứu nào trên thế
giới trong ngành nghề của họ mà không cần qua
một khóa huấn luyện nào khác.
Tôi đề nghị bộ Giáo Dục và Đào Tạo nên quan tâm đến chất lượng đào
tạo hơn là danh xưng, tên gọi của văn bằng.
Cần phải tạo điều kiện và hướng dẫn cho sinh
viên tiến sĩ sao cho khi tốt nghiệp, họ phải có ít
nhất là hai bài báo công bố trên các tạp chí quốc tế. Cần
phải có một đội ngũ những người làm hướng dẫn
làm luận án mạnh và có uy tín trong khoa học.
Những người này phải có ít nhất là 10 bài báo hay công trình
nghiên cứu đã được đăng trên các tạp chí uy tín trên thế
giới. Cần phải có một hệ thống bảo vệ và
duyệt luận án nghiêm chỉnh hơn, kể cả tranh
thủ sự hợp tác của những nhà khoa học ở các nước phương Tây, kể
cả Việt kiều, trong các hội đồng xét duyệt luận án. Có như
thế thì văn bằng tiến sĩ và người có văn bằng
đó từ các trường đại học ở VN mới được kính
trọng từ các đồng nghiệp, và quan trọng hơn hết là nâng caochất
lượng đào tạo hậu đại học ở Việt Nam ./.
(PhD. Nguyễn Văn Tuấn,
t.nguyen@garvan.org.au, University of New South
Wales)
|