Về văn hoá
Trong xã hội gọi là "truyền
thống", và nói một cách chung chung, cơ sở
kinh tế ảnh hưởng lớn đến văn hoá. Văn hoá
của ta xây dựng từ xưa trên nông nghiệp. Cho
tới nay, tuy rằng đất nước đã bắt đầu công
nghiệp hoá, vẫn còn 70 % dân số sống ở nhà
quê, không ở thành thị.
Nhưng có nhiều thứ nông
nghiệp. Có nông nghiệp dùng hoàn toàn chân
tay, có nông nghiệp dùng ít hay nhiều máy
móc. Giữa ta và người Hán trước đây ba bốn
nghìn năm, nông nghiệp khác nhau vì cốc loại
khác nhau. Người Hán trước đây đầu tiên sống
ở lưu vực sông Hoàng Hà trồng kê là một thứ
cốc trồng khô. Người Việt ở miền Nam sông
Dương Tử trồng lúa nước. Người Hán gọi nước
là quốc, nghĩa là
một nơi có thành trì
城, có tường xây xung quanh
để bảo hộ hệ thống chính trị
國. Ta gọi nước
là nước,
hay đất nước,
đủ biết chất tự nhiên này quan trọng biết
bao cho sự sống còn của dân tộc.
Sự khác biệt giữa trồng khô và
trồng nước đưa đến hiệu quả khác nhau về xã
hội. Trồng khô là công việc của đàn ông, do
đó cho đàn ông ưu thế, chế độ phụ hệ sớm nở.
Trồng nước có sự hợp tác giữa đàn ông và đàn
bà. Đàn ông cày bừa, đàn bà cấy. Do sự hợp
tác giữa đôi bên, địa vị người đàn bà ở ta
cao hơn là ở người Hán. Một bằng chứng là sự
tôn thờ các Mẫu ở ta hãy còn thực tại. Lúc
đến nước ta, Phật giáo đã sáp nhập các Mẫu
vào chùa tức là tứ Pháp. Ta gọi trời là Bà,
trăng là Ông, trong khi người Hán cho trời
là dương, trăng là âm. Sau này khi người Hán
chiếm nước ta, dần dần ta mới nói Ông trời,
chế độ mẫu hệ dần dần mất đi cho chế độ phụ
hệ.
Địa vị cao của đàn bà rất rõ
trong xã hội ta. Nó biểu hiện trong tục ngữ
ca dao và trong luật lệ. Trong luật Hồng
Đức, trước khi luật Gia Long chịu ảnh hưởng
của Trung Quốc nhiều hơn, con gái và con
trai đều được thừa kế bình đẳng. Con gái có
quyền hương khói cho cha mẹ nếu cha mẹ không
có con trai. Nếu chồng bỏ rơi vợ trong 5
tháng, người vợ có quyền bỏ chồng
*.
Một điểm tích cực khác của văn
hoá nông nghiệp cộng với ngôn ngữ dân tộc là
sự phong phú của văn học dân gian, văn học
truyền miệng.
Ít nước có một kho tàng tục
ngữ ca dao tuyệt diệu như ta. Nếu so sánh
với Pháp chẳng hạn, thì văn học bình dân của
Pháp chẳng thấm đâu với văn học bình dân của
ta.
Nhưng hiện tượng nào cũng có
hai mặt : mặt phải và mặt trái, mặt tích cực
và mặt tiêu cực. Người nông dân có óc thực
tế, gần gũi sự việc, không có óc trừu tượng
hoá. Những ý niệm hay khái niệm trừu tượng
của ta đều lấy chữ ở nước ngoài, trước đây
phần nhiều ở chữ Hán bây giờ thì mượn ở
tiếng Pháp hay tiếng Anh. Trước thế kỉ XX,
ta không có một nhà khoa học nào (trừ Lãn
Ông) mà cũng không có triết học nếu ta trừ
một vài nhà thơ thiền thời Lý-Trần, trong đó
xuất sắc nhất là vua Trần Thái Tông. Có
nhiều người gọi Lê Quý Đôn là một nhà triết
học. Sự thực ông ấy viết rất nhiều về đủ các
loại, nhưng không đi sâu vào đâu cả, có khi
chỉ là những liệt kê về địa dư và lịch sử
(nói thế không có nghĩa là không có ích cho
người nghiên cứu). Thật sự Lê Quý Đôn có
viết về triết học : trong
Vân đài loại ngữ có một chương về lí
khí, tuy lí thú thật nhưng không đủ để gọi
Lê Quý Đôn là một nhà triết học. Riêng tôi
cũng đã viết về một vài nhà triết học, từ
Khổng Tử đến Marx và Engels, và phê bình họ.
Nhưng tôi không coi tôi là một nhà triết
học.
Trở lại vấn đề bản tính khoa
học, có thể nói người Việt xưa không có óc
khoa học nên nhiều khi cẩu thả. Cha ông
chúng ta đã không biết lợi dụng triệt để một
dụng cụ có hiệu lực lớn : nghề in. Nghề in
không phổ biến, người ta cứ chép tay. Mà
người chép có phải lúc nào cũng là nhà học
rộng đâu. Không hiểu chữ gì thì viết bừa hay
đổi ra chữ khác. Do đó mà một tác phẩm có
nhiều bản in hay chép khác nhau mà bây giờ
các nhà nghiên cứu phải mất bao nhiêu công
lực để tìm xem bản nào là bản chính thức,
câu nào là câu chính thức của tác giả.
Phải nói rằng cái tính không
khoa học đó bây giờ hãy còn, trộn với những
di tật của thời chuyên chính. Tôi thấy ở bên
ta, khi đăng lại một bài đăng ở ngoại quốc,
người ta nhiều khi cắt đi một hai đoạn mà
không xin phép tác giả hay không nói là đã
cắt.
Cũng về vấn đề khoa học hay
không khoa học, phải nói rằng ta nhiều khi
bị một hệ tư tưởng nào đó chi phối và đánh
lạc. Ngày xưa, thời Lê-Nguyễn, có sách bị
cấm hay phải sửa đổi. Ngày nay vẫn thế tuy
rằng hệ tư tưởng đã thay đổi. Năm 1959, nhóm
Văn Sử Địa cho ra cuốn Sơ
thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển
IV, trong đó họ xếp Nguyễn Du vào thế kỉ
XVIII tuy biết rằng Nguyễn Du đến 1820 mới
chết. Gia Long lên ngôi năm 1802. Có phải
tại lúc bấy giờ nhà Nguyễn bị coi là một
triều đình bán nước không ? Trong khi đó,
cuốn Lược thảo lịch sử văn
học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn, tập
II, đã đúng sự thực hơn khi xếp Nguyễn Du
vào thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Cả hai
cuốn đều đánh giá một tác phẩm theo nội dung
tiến bộ hay không của nó, phẩm chất văn học
không kể đến hay đứng sau.
Cả đến ngày nay, một số người
viết về sử văn học vẫn bị hệ tư tưởng đó chi
phối, làm giảm bớt tính khoa học của những
gì họ viết. Viết về văn hiện đại họ lờ những
người có tài nhưng không "chính giáo", họ
dẫn một người, nhưng xén cắt một hai dòng,
v.v... Trong một công trình đồ sộ như
Tổng tập văn học Việt Nam,
tôi không thấy có một kiệt tác là
Văn tế trận vong tướng sĩ
mà Phan Huy Ích đã viết cho Nguyễn Văn Thành
năm 1804. Quên hay cố ý ? Trong khi đó thì
có 5 tập dành cho văn học cách mạng những
năm 1930-45, một số tác phẩm có tính cách
tuyển truyền hơn là văn học thực sự.
Về vấn đề bản sắc văn hoá dân
tộc
Đây là một vấn đề phức tạp.
Tôi cho rằng ý niệm "bản sắc văn hoá" không
phải là một ý niệm khoa học, hay là một ý
niệm ít khoa học mà nhiều chính trị. Người
ta nói đến bản sắc dân tộc để khẳng định ý
chí độc lập của mình đối với nước ngoài.
Tinh thần yêu nước rất rõ ràng trong văn học
Việt Nam, là đặc trưng số một của nền văn
học của ta từ thế kỉ X đến bây giờ.
Nhưng cái gì là Việt Nam, cái
gì không phải là Việt Nam ? Trước khi người
Hán đến nước ta, ta có văn hoá Đông Sơn, có
dấu hiệu của mình và dấu hiệu chung với
nhiều văn hoá đồ đồng ở Đông Nam Á Châu,
nghĩa là ở miền Nam sông Dương Tử (tiện đây
nên nói rằng chữ Hán "giang" không phải là
chữ Hán thật, mà thuộc về ngôn ngữ Nam Á).
Cuối thời Đông Sơn, ta tiếp
thu nhiều ảnh hưởng ở ngoài vào : Phật giáo
từ Ấn Độ sang, rồi từ Trung Hoa xuống (bằng
chứng là ta có 2 chữ để gọi đức Phật :
Bụt từ tiếng Phạn,
Phật từ tiếng Hán),
cùng thời với Phật giáo (khoảng thế kỉ 1-2
Công nguyên) Khổng giáo và Đạo giáo. Ta tiếp
thu nhưng cũng hiểu và thay đổi phần nào
theo ý ta. Rồi đến thế kỉ XIX ảnh hưởng của
Pháp, đến thế kỉ XX thêm ảnh hưởng của tất
cả hoàn cầu. Có thể nói văn hoá Việt Nam là
một tổng thể dựng trên sự hiểu, giải và tổng
hợp một số sự kiện của mình và của người
ngoài theo những đặc trưng của môi trường
mình. Và phải nói rằng cái bản sắc văn hoá
đó cũng như các bản sắc văn hoá khác không
cố định mà luôn thay đổi, khi chậm khi nhanh
theo sự thay đổi kinh tế, chính trị, kĩ
thuật, khoa học v.v... của thế giới và của
mình.
Nói thế nghĩa là ta phải luôn
luôn học và theo đuổi thế giới, những nước
đi nhanh hơn mình, để khỏi bị lạc hậu. Ta đã
bắt đầu công nghiệp hoá, kĩ thuật hoá, nhưng
tôi có cảm tưởng rằng về phương diện chính
trị và khoa học, chúng ta chưa đi nhanh. Về
chính trị, đó là vấn đề dân chủ hoá. Về khoa
học, đó là vấn đề óc khoa học. Không có óc
khoa học, thì chỉ biết nhập khoa học của
người ngoài một cách máy móc, không sáng
tạo, không biết làm sao cho hợp với môi
trường của mình. Khi đã có óc khoa học thì
ta sẽ biết gìn giữ cái mà ta gọi là bản sắc
văn hoá dân tộc, cái bản sắc mà, như tôi đã
nói ở trên, không thể đứng im mà phải thay
đổi để đi kịp với trào lưu thế giới.
Về giáo dục
Đây là vấn đề giáo dục. Đây
tôi nghĩ là vấn đề số 1 của tất cả các nền
giáo dục trên thế giới. Tất cả các nhà giáo
dục học đều công nhận rằng phải giáo dục
tinh thần và phương pháp khoa học từ tuổi
sớm nhất, nghĩa là từ mẫu giáo. Tôi nói tinh
thần và phương pháp phải dạy trong tất cả
các môn hay khoa, cần hơn là những kiến thức
khoa học, vì kiến thức có thể thay đổi.
Tinh thần và phương pháp khoa
học nghĩa là gì ? Nguyên tắc thứ nhất là
không khẳng định gì nếu không có bằng chứng.
Cái đó không hiển nhiên như người ta tưởng.
Có bao nhiêu người đã viết về "công xã
nguyên thuỷ" vì Marx đã viết thế ! Sự thực
chính Marx cũng không biết nó là cái gì. Mà
không thể biết được vì không có bằng chứng
khảo cổ hay chữ viết. Người ta chỉ có thể
lấy nó là một giả thuyết. Ai cũng có quyền
đưa ra một giả thuyết, nhưng không được coi
giả thuyết là một sự thực mà ai cũng phải
công nhận. Nó sẽ thành sự thực lúc nào có đủ
bằng chứng. Tôi lấy một thí dụ. Ở ta, có
nhiều người đã viết rằng nhà Tây Sơn đã
thống nhất nước Việt Nam. Sự thực, sau khi
thắng nhà Nguyễn, ba anh em Tây Sơn đã chia
đất nước thành ba vùng. Sau khi thắng
Trịnh-Lê và quân Thanh, Nguyễn Huệ chỉ làm
chủ miền Bắc và miền Trung cho tới đèo Hải
Vân. Miền dưới chia cho Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Lữ. Lữ bất lực, mất miền Nam cho
Nguyễn Ánh ngay đầu năm 1789 (Nguyễn Huệ mất
tháng 9-1792).
Tôi không biết rõ tình trạng
giáo dục ở Việt Nam nên chỉ nhắc lại vài
nguyên tắc mà đại đa số các nhà giáo dục
đồng ý :
1. Giáo dục bao gồm tất cả các
lĩnh vực : tri thức, luân lí, thể dục, thẩm
mĩ. Ngày xưa người ta nói Tiên học lễ, hậu
học văn. Con người phải được phát huy ở mọi
diện. Nếu ta chú trọng quá về diện kinh tế,
thì sẽ mất cân bằng.
2. Giáo dục ở nhà, ở trường,
trong xã hội. Trường dạy theo chương trình,
xã hội và đời dạy không hình thức. Hai bên
không được mâu thuẫn. Dạy dân phải lương
thiện mà người lãnh đạo tham nhũng thì dân
sẽ không nghe. Lấy tự do làm quý mà không
cho dân những quyền dân chủ thì dân sẽ không
hiểu. Không thể nuôi dưỡng một tinh thần xã
hội chủ nghĩa trong một kinh tế thị trường.
3. Cấu trúc nền giáo dục xây
trên tiểu học chứ không phải trên đại học.
Đại học không thể mở mang thật sự nếu tiểu
học và ngay cả mẫu giáo đã không rèn luyện
con người. Dĩ nhiên đại học có thể nảy nở
một phần nào, nhưng sẽ chỉ cho một thiểu số
nếu không có một nền tảng vững chắc.
4. Giáo dục trẻ em phải ăn
nhịp với sự trưởng thành. Có người đi chậm
có người đi nhanh, nhưng nói chung không nên
dạy những gì mà ở một tuổi nào óc không thể
hiểu được. Nên đi từ cụ thể đến trừu tượng.
Một đằng khác không nên nhồi sọ. Phải để cho
trẻ em có thời giờ chơi đùa, nảy nở. Học
bằng làm hơn là học bằng sách. Vả lại khoa
học kĩ thuật tiến rất nhanh. Không nên nhồi
sọ với những kiến thức không cần thiết, có
thể thay đổi rất nhanh hay không cần để hiểu
đời nay. Nên dạy những gì làm cho con người
có thể dùng để tự học lấy, để chính mình đổi
kiến thức của mình với sự tiến hoá của khoa
học kĩ thuật. Phải đào tạo óc khoa học,
không chỉ truyền kiến thức khoa học.
5. Giáo dục phải dựa vào những
giá trị quý nhất của văn hoá dân tộc.
Thế
không có nghĩa là đề cao văn hoá của mình
trên các văn hoá khác. Văn hoá nào cũng có
diện tiêu cực và diện tích cực của nó. Thế
cũng có nghĩa là phân tích văn hoá của mình,
học kinh nghiệm của ngoại quốc, nhưng không
chép họ một cách máy móc.
6. Thành đạt của giáo dục phần
lớn dựa vào thầy dạy. Cho giáo dục ưu tiên
thì phải đào tạo thích hợp người giáo viên,
cho họ đủ điều kiện để hành nghề và luôn
luôn tự học. Đại học phải nghiên cứu để nâng
cao trình độ dạy, đào tạo cán bộ cần cho các
ngành kinh tế xã hội.
Tinh thần khoa học đưa đến sự
kính trọng kẻ đối lập, đến dân chủ. Trong
đời người không chỉ có khoa học, còn có gia
đình, có xã hội. Sự thực xã hội phức tạp hơn
sự thực khoa học. Không ai có thể nói rằng
chỉ có mình là đúng, người khác lầm. Một sự
thực hôm nay có thể trở thành một sự không
thực ngày mai, cũng như ở khoa học vậy. Vì
khoa học cũng luôn biến đổi. Trước đây có
bao nhiêu người tin là quả đất vuông !
Cho nên tinh thần khoa học
cũng là một lợi khí để chống bảo thủ, chống
trì trệ, biết sống với thời đại. Tinh thần
đó sẽ dẫn ta đi tìm những phương tiện để cải
tiến giáo dục, học những kinh nghiệm thế
giới, tổ chức những chương trình học tập,
v.v... Cố nhiên nói không đủ. Phải luôn luôn
nghiên cứu, học xã hội mình và xã hội người.
Đó là một nguyên tắc không thể không có.
Với tinh thần đó, tôi đang
viết một cuốn Lịch sử và
tuyển tập văn học Việt Nam. Mục đích
đầu tiên là để giới thiệu văn học nước mình
cho ngoại quốc. Hiện giờ người ta chỉ biết
Trung Hoa và Nhật Bản ; Triều Tiên và ta thì
biết hời hợt. Tôi mong rằng quyển sách sẽ
được dịch sang tiếng Anh có nhiều người đọc
hơn là tiếng Pháp.
So sánh với các nước khác, tôi
thấy đặc thù của văn học Việt Nam là sự quan
hệ mật thiết của nó với lịch sử chính trị.
Cố nhiên ở đâu cũng có sự quan hệ đó. Nhưng
theo tôi biết thì không ở đâu mật thiết như
ở Việt Nam. Ta có thơ văn thiền, Khổng, Lão,
thơ văn tình cảm, thơ văn về lao động, sản
xuất, lễ hội, thơ văn ca tụng thiên nhiên và
nhàn hạ, nhưng đặc trưng số một là tinh thần
yêu nước chống ngoại xâm. Đất nước là đề tài
số một của văn học Việt Nam.
Vì vậy tôi đã chia lịch sử văn
học theo lịch sử chính trị. Phần thứ nhất từ
938, năm chiến thắng Nam Hán trên sông Bạch
Đằng, có mấy câu còn lại của Ngô Quyền, đến
1428 với Bình Ngô đại cáo
và chiến thắng quân Minh. Đây là thời kì
dựng nước với sự đóng góp của vua chúa, nhà
sư và nhà nho. Phần thứ nhì từ 1428 đến
1918. Thời kì này khác với thời kì trước vì
nhà Lê lập một chế độ quan liêu dựa trên
Khổng giáo và thi cử. Khác thời kì trước vì
các quan thời Lý Trần phần nhiều là con cháu
nhà vua, ảnh hưởng của Phật giáo trong 3 thế
kỉ mạnh hơn là ảnh hưởng Nho giáo. Thời kì
II này chấm dứt năm 1918 với sự bãi bỏ hệ
thống thi cử dựa trên Nho giáo. Thời kì thứ
ba là thời kì văn học hiện đại với chữ quốc
ngữ, từ 1865 đến bây giờ. Nó trùng một phần
với giai đoạn trước, vì trong một thời gian
nhà văn cổ điển dùng chữ Hán và chữ nôm, nhà
văn mới dùng chữ quốc ngữ. 1865 là năm ra
đời của Gia Định báo,
báo đầu tiên dùng chữ quốc ngữ. Cố nhiên
chưa có tác phẩm. Ngôn ngữ phải hình thành
trước khi có tác phẩm. Tác phẩm, ngược lại,
sẽ giúp ngôn ngữ trưởng thành.
Tôi không chấp nhận chữ "trung
đại" của một số tác giả (cũng như tôi không
chấp nhận ý niệm "phong kiến" ở nước ta). Ý
niệm "trung đại" có nghĩa ở Âu Châu vì là
thời giữa (trung) Cổ đại và Phục hưng, giữa
sự sụp đổ của La Mã và sự Phục Hưng bắt đầu
từ thế kỉ XV. Người Âu gọi là Phục Hưng vì
cho rằng có một sự đổi mới văn hoá hoàn toàn
đối với thời Cổ đại bị Kitô giáo chi phối.
Nhưng ở ta có gì có thể gọi được là Phục
Hưng, có gì là hoàn toàn đổi mới văn hoá ?
Như trên đã nói, ở ta hai thay đổi lớn là sự
xuất hiện của một nhà nước quan liêu với
Khổng giáo là chủ nghĩa thống trị và thi cử
là phương tiện tuyển lựa viên chức. Khổng
giáo đã bắt đầu mạnh từ thế kỉ XIII-XIV và
chế độ thi cử cũng đã có từ thế kỉ XI nhưng
lúc ấy thì thi Tam giáo. Không có gì có thể
gọi được là Phục Hưng hay Trung đại ! Đó là
những ý niệm "ngoại nhập" không có cơ sở
trong lịch sử Việt Nam.
Diễn Đàn Forum
số 153 - tháng 07. 2005