Những bài cùng tác giả
Một trong những vấn đề ta
thường gặp ở Việt Nam là
sinh viên học sinh ra trường
chưa đủ khả năng để đảm nhận
được những công tác, chức vụ
mà đáng lẽ họ phải có khả
năng ứng xử độc lập. Họ phải
qua một thời gian bỡ ngỡ,
chới với rất dài so với thời
gian cần thiết cho một sinh
viên Tây phương.
Trong mấy chục năm du học và
dạy học, tôi và nhiều bạn bè
cũng hay nhận xét rằng sinh
viên Việt Nam (và Á Châu nói
chung) thường rất khá ở
những năm đầu đại học, khi
chỉ cần biết cách giải toán
hay thuộc bài là được điểm
cao, nhưng lên những năm
cuối, khi cần làm đề án
nhiều thì thường thua sinh
viên Tây phương. Điều này
tôi sẽ chứng minh cụ thể
trong bài.
Nguồn gốc sự khác biệt này,
theo thiển ý, là do sự khác
nhau về triết lý và định
hướng giáo dục giữa Việt Nam
và các nước Tây phương.
Trong khi giáo dục Việt Nam
chú ý đến việc nhồi nhét
kiến thức và rèn luyện một
số kỹ năng chật hẹp (như
giải toán) để luyện cho thi
đậu cao, nền giáo dục của
các nước Tây phương rất chú
trọng rèn luyện kỹ năng giải
quyết những vấn đề thực tế.
Muốn giải quyết vấn dề thì
kiến thức chưa đủ, mà còn
cần cả một trạng thái tinh
thần thích hợp (mental
attitude) , một thái độ tự
tin, dám nghĩ, dám làm, dám
thử, dám sáng tạo. Để có
thái độ đó, học sinh cần tìm
tòi học hỏi với một tinh
thần thực tiễn. Tinh thần
này không phải không có ở
người Việt Nam, nhưng số
người phát triển cao về mặt
đó rất ít, và họ có được
tinh thần đó là do đặc tính
bẩm sinh, chưa bị giáo dục
làm mai một, chứ không phải
nhờ giáo dục mà phát triển.
Một trong những yếu tố
chính để có thể giải quyết
vấn đề là trước hết phải nhận
thấy có vấn đề và nhìn ra
vấn đề nằm ở đâu. Về mặt
này, ta thấy có một sự khác
biệt rất lớn trong thái độ
sống của con người Tây
phương so với con người Việt
Nam chúng ta: người Tây
phương
hay
đặt vấn đề, nhìn đâu cũng
thấy vấn đề cần phải
giải quyết.
Tại các nước Tây phương,
thái độ này không phải chỉ
là do ảnh hưởng giáo dục học
đường, mà đã ngấm sâu vào xã
hội, trong mọi thể chế kể cả
báo chí, chính trị cũng như
trong đời sống thường ngày.
Nhiều người quen sống trong
xã hội Việt Nam, khi ra
ngoại quốc thường thấy hoang
mang khó chịu vì luôn phải
nghe chê bai, chỉ trích
trong mọi khía cạnh xã hội,
mặc dù xã hội có vẻ phồn
thịnh về vật chất. Báo chí
thường đăng đầy rẫy tin xấu,
ít tin vui. Diễn văn của các
nhà chính trị thường hay chê
bai, ít khen ngợi. Thói quen
phê phán đó của người Tây
phương cũng phần nào nhiễm
vào cộng đồng người Việt hải
ngoaị, trở thành nguồn gốc
của nhiều hiểu lầm tai hại.
Nhiều khi người trong nước
tưởng lầm rằng sự phê phán
của Việt kiều có nguồn gốc
thái độ chính trị, chuyện đó
không phải là không có,
nhưng trong nhiều trường
hợp, sự phê phán đó thực ra
là do tập tính văn hoá nhiễm
từ xã hội Tây phương .
Theo thiển ý của tôi, muốn
cho giáo dục góp phần vào
việc phát triển quốc gia về
mọi mặt để có thể đương đầu
với những vấn đề của thế kỷ
21 thì
nền giáo dục phải
nhắm vào sự phát triển, hay
ít ra đừng làm mai một, hai
năng khiếu "PHÁT HIỆN VẤN
ĐỀ" (problem finding) và
"GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ" (problem
solving). Xã hội Tây phương
chú trọng đến những mục tiêu
này đến nỗi ta có thể gọi họ
là những "xã hội hướng về vấn
đề" (problem-oriented
societies).
Theo thiển ý, sự mai một khả
năng nhìn thấy vấn đề là trở
ngại lớn nhất cho sự tiến
triển của một xã hội. Khi mà
ta bằng lòng với những cái
đã có, khi chỉ thấy những
vấn đề nhỏ mà không thấy vấn
đề lớn, khi sợ sệt không dám
phân tách vấn đề tới nơi tới
chốn, không dám nhìn thẳng
vào vấn đề, thì ta đã bị
thiệt thòi ngay từ bước đầu.
Do đó giáo dục Tây phương
rất khuyến khích một
thái độ
cật vấn, hay đặt câu hỏi
(
"questioning attitude") ở
đứa trẻ từ tuổi nhỏ, còn ta
thì trái lại thường không
tán thành việc đó. Đứa trẻ
hỏi quá nhiều thì người lớn
bảo lo học đi, đừng hỏi vớ
vẩn, lớn lên sẽ biết, chuyện
đó dã có người lớn lo, thậm
chí có thể bị la mắng, ít
khi được hân hạnh bàn cãi
thẳng thắn và bình đẳng.
Người lớn hay có những cách
đối xử làm mất sự tự tin của
trẻ nhỏ, trong khi lòng tự
tin lại là một yếu tố rất
quan trọng trong việc nhìn
thấy và giải quyết vấn đề.
Có thể là bố mẹ cũng sợ rằng
con mình phát triển những
thói quen cật vấn và lòng tự
tin quá đáng thì sẽ đi tới
chỗ kiêu ngạo và bị xã hội
trù dập nên cần dập những
tính đó ngay từ nhỏ.
Truyền thống này bắt rễ sâu
trong xã hội Việt Nam từ bao
đời và có thể đã trở thành
tệ hơn trong không khí xã
hội chính trị mấy chục năm
vừa qua. Xã hội phong kiến
làng xã cổ xưa của Việt Nam
là một xã hội trọng sự ổn
định trên hết và coi thái độ
ngờ vực, nhìn đâu cũng thấy
vấn đề, đòi hỏi sửa đổi, cải
tiến, là đối lập của sự ổn
định. Thái độ trọng ổn định
này vẫn là đặc tính căn bản
của Việt Nam hiện nay dù sau
mấy chục năm đụng chạm với
một thế giới càng ngày thay
đổi càng nhanh. Do đó sự
phát triển thói quen tìm vấn
đề và nhìn thẳng vào vấn đề
là một việc vô cùng cần
thiết trong giáo dục, nhưng
không phải là dễ dàng trong
một nước như Việt Nam hiện
nay. Căn bản là nhà giáo
dục, và người lớn nói chung,
phải có một thái độ kiên
nhẫn, khoan dung và bình
đẳng hơn với trẻ nhỏ. Để
khuyến khích mở mang những
đặc tính tìm tòi của trẻ đã
có rất nhiều nghiên cứu và
sách vở chuyên môn về sư
phạm mà nền giáo dục của ta
cần học hỏi. Tiếc thay chính
sách hiện nay vẫn chưa giành
ưu tiên cho ngành sư phạm.
Quay sang khía cạnh thứ hai
là sự phát triển khả năng
giải quyết vấn đề, tôi cảm
thấy nền giáo dục của ta
cũng rất yếu kém. Khả năng
giải quyết vấn đề không phải
chỉ ở kiến thức theo nghĩa
hẹp mà còn tùy thuộc vào một
số đặc tính tinh thần:
- Có đầu óc tự tin
và sáng tạo, không máy móc
đi theo những lối suy nghĩ
hay hành động cũ, biết sáng
chế hay ít ra biết ứng dụng
những giải pháp sẵn có cho
những hoàn cảnh mới, không
làm theo sách vở một cách
máy móc, nhưng biết dùng
sách vở tài liệu một cách
sáng tạo và thực tiễn.
-
Luôn luôn tìm tòi
học hỏi.
-
Biết áp dụng tinh
thần khách quan và khoa học
vào mọi phương diện của đời
sống cá nhân và xã hội,
không phải chỉ trong phạm vi
chuyên môn.
-
Biết hợp tác, và
khi cần, biết lãnh đạo hữu
hiệu theo những nguyên tắc
dân chủ văn minh.
-
Biết nhận thấy và
có can đảm tôn trọng sự
thật.
-
Có óc thực tế
(pragmatism), không định
kiến, không câu nệ thành
kiến, chủ nghĩa.
Tính tìm tòi sáng tạo là
những tính thiên bẩm của con
người và nhất là ở trẻ em,
nhưng dễ bị mai một đi trong
những hệ thống giáo dục, xã
hội từ chương cổ hủ truyền
thống. Vậy giáo dục phải để
cho trẻ phát triển tự nhiên
những tính đó thay vì gò bó
chúng vào khuôn phép. Từ
ngàn xưa giáo dục Việt Nam
nhắm vào đào tạo cho đứa trẻ
biết chỗ đứng đã định của
mình trong xã hội. Tính tự
tin thường bị nhìn một cách
dè dặt và nhầm lẫn với tính
kiêu căng. Lối suy nghĩ khác
thường hay bị nghi ngờ và
dập tắt sớm, đưa đến sự thui
chột óc sáng kiến. Tinh thần
tôn sư trọng đạo thái quá
dẫn đến lòng tin vào người
trên, lối cũ, vào sách vở
một cách quá đáng (nhưng lại
không biết áp dụng kiến thức
sách vở trong thực tế). Tính
khiêm cung, biết điều, máy
móc vâng lời được coi là
quan trọng hơn óc tự tin và
sáng kiến.
Trong trường tiểu học và
trung học của Úc, học trò
được khuyến khích tự suy
nghĩ lấy từ tuổi rất nhỏ.
Từ
tiểu học, chúng đã được cho
làm những đề án (project)
đối với chúng là khá lớn,
phải bỏ cả mấy buổi đi vào
thư viện hay mò mẫm trên
Internet, tìm tài liệu viết
những bài nghị luận, khảo
cứu.
Trẻ em có thể tự kết
luận tùy theo suy luận của
mình, không phải trả lời một
câu hỏi có sẵn hay chứng
minh một quan điểm do thầy
cô đưa ra. Ngày thứ bảy, chủ
nhật đi vào thư viện thành
phố là thấy từng bày trẻ con
từ chín mười tuổi trở lên
đi tìm sách làm đề án (bây
giờ thì có thể ít hơn vì có
thể dùng internet ở nhà).
Học trò được khuyến khích tự
tin vào lý luận của mình,
không máy móc theo người
lớn, luôn luôn có quyền lý
sự với thầy giáo và người
lớn nói chung và không bao
giờ bị bắt phải im lặng tuân
theo lý lẽ của người lớn. Dĩ
nhiên khi thấy các em có
những suy nghĩ sai lầm một
cách nguy hiểm thì thầy cô
phải nhẹ nhàng hướng dẫn.
Lối giáo dục ấy đòi hỏi một
sự hiểu biết và kiên nhẫn
lớn ở thầy cô và người lớn
nói chung. (Người Á đông
chúng ta thường có thành
kiến rằng người Tây phương
hấp tấp, kém kiên nhẫn,
nhưng tôi tin rằng nếu thấy
một người Tây phương trung
bình bàn luận với trẻ nhỏ
thì sẽ không ai còn nghĩ vậy
nữa, mà phải thán phục sự
kiên nhẫn của họ.)
Đối với đồng bạn, trẻ em Tây
phương có những bài tập rất
hữu hiệu về sự hợp tác
trong thể thao cũng như
trong những cuộc tranh luận
(debates). Một trong những
điều kiện tối cần của sự làm
việc chung là
thuật diễn đạt
ý tưởng (communication), và
trẻ cũng được đào luyện kỹ
về thuật trình bày và bảo vệ
ý tưởng qua những buổi tranh
luận và những bài tập diễn
văn. Chúng cũng được tập
luyện về nghệ thuật giải
quyết tranh chấp (conflict
resolution). (Xin đừng lầm
lẫn với sự nhường nhịn kiểu
dĩ hòa vi quí, "một sự nhịn
chín sự lành" của Việt Nam.
Nghệ thuật giải quyết tranh
chấp là nghệ thuật bàn luận
một cách khôn khéo và dùng
lý lẽ để dung hòa những quan
điểm trái ngược, đưa đến hợp
tác hữu hiệu, chứ không phải
là bỏ qua một bên mọi sự
phải trái.
Với sự đào luyện đó, phần
đông thanh niên Úc ra trường
với một thái độ rất tự tin
và đầu óc linh hoạt, dễ
thích ứng với hoàn cảnh. Sự
khác biệt giữa những thanh
thiếu niên đào tạo trong hệ
thống Úc và những thanh
thiếu niên đào tạo trong
những nước Á Châu chậm tiến
như Việt Nam rất dễ nhận
thấy trong quá trình tiến
triển đại học, khi họ học
chung với nhau trong những
đại học Úc. Ở những năm đầu
đại học, khi chương trình
học chú tâm vào việc nhồi
nhét một số kiến thức căn
bản như toán, lý, hóa, những
sinh viên đào luyện ở Việt
Nam thường rất trội, điểm
cao hơn hẳn các sinh viên
Úc. Lên đến năm thứ ba, khi
sinh viên cần phải tự đọc
sách và tìm kiến thức lấy,
và nhất là khi vào năm thứ
tư cửa những chương trình
honours, khi phải làm những
đề án lớn một mình hoặc cộng
tác với đồng môn dưới sự
hướng dẫn lỏng lẻo của thầy,
đòi hỏi tính tự tin, óc sáng
kiến, kỹ năng giao tiếp
và cộng tác, thì sự yếu kém
của phần lớn sinh viên Việt
Nam hiện ra rõ rệt. Thời đi
du học tôi thường kinh ngạc
vì thấy thanh niên bản xứ,
kể cả những người chưa học
đại học, dùng tài liệu từ
sách vở báo chí để làm xe
hơi, xây nhà, thậm chí làm
máy bay thành công mà không
chút ngần ngại hay mặc cảm
(một ví dụ gần đây là một
thiếu niên Úc 17 tuổi đi
thuyền buồm một mình vòng
quanh thế giới). Trong khi
đó thì sinh viên Việt Nam
đến khi ra trường đi vào xã
hội vẫn còn chới với y như
anh sinh viên đi thực tập,
chưa có khả năng vận dụng
kiến thức vào cuộc sống.
Để chứng minh sự kiện này
một cách khách quan, tránh
dựa vào cảm tính, tôi đã
phân tích điểm trung bình
hàng năm của các sinh viên
tốt nghiệp trong khoa Công
Nghiệp Hóa trường tôi, vì
tôi nắm đầy đủ dữ kiện. So
sánh điểm trung bình từng
năm của 361 sinh viên Úc và
68 sinh viên du học từ Đông
Nam Á (phần đông là
Indonesia gốc Hoa hoặc Nam
Dương với một số Thái Lan và
Malaysia), ta có kết quả như
sau:
Năm đầu, sinh viên Đông Nam
Á 67,4%, Úc 65,8%
Năm thứ hai, sinh viên Đông
Nam Á 65,8%, Úc 66,4%
Năm thứ ba, sinh viên Đông
Nam Á 63,0%, Úc 66,1%
Năm thứ tư, sinh viên Đông
Nam Á 66,0%, Úc 71,5%
tức là năm đầu sinh viên
Đông Nam Á dẫn trước 1,5%
rồi cứ tuần tự tụt dần cho
tới năm cuối thì thua hẳn
5,5%. Sự cách biệt ở năm
cuối có lẽ còn lớn hơn nhiều
- có thể là gấp đôi - nếu
không có những đề án làm
chung (như đề án vẽ quy
trình công nghệ
("process
design project") giúp cho
những người kém trong toán
được đồng đội "kéo" lên.
Thật vậy, khi hướng dẫn
những toán vẽ đề án ("design
team") trong năm cuối (mỗi
toán bốn người), tôi thường
nhận thấy rằng ở những toán
có lẫn Úc và Á,
sinh viên Úc
luôn luôn năng động, phát
hiện vấn đề, đưa ra cách tìm
giải pháp, đóng vai trò lãnh
đạo và phân chia công việc
cho các đồng đội Á Châu;
sinh viên Á châu thì chỉ
giỏi làm những nhiệm vụ được
giao phó, khía cạnh này họ
không thua kém ai. Cũng
không thể bảo rằng sự tụt
hậu của sinh viên Đông Nam Á
là do kém Anh ngữ, vì đến
năm cuối tiếng Anh của họ
phải giỏi hơn năm đầu rất
nhiều mà tại sao điểm thì cứ
tụt hậu dần.
Người dạy đại học tại Úc, Mỹ
sẽ quen thuộc với nhũng mẩu
chuyện như sau đây. Có lần
tôi đưa một sinh viên Úc năm
cuối làm một đề án có liên
quan đến việc dùng những
chất làm lạnh CFC có hại cho
ozone; sau khi nghe tôi diễn
tả mục đích đề án chừng nửa
giờ, cô ta đi tìm tài liệu,
tự ý liên lạc với các tổ
chức về môi sinh (như
Greenpeace), với những
chuyên viên trong ngành, với
Liên hiệp quốc, v.v., hoàn
toàn không cần chỉ bảo. Về
mặt kỹ thuật cô ta cũng tự ý
học lấy những kỹ thuật tính
toán mới mẻ bằng computers
chưa hề được dạy. Sáu tháng
sau, cô ta làm xong một công
trình có giá trị, được đăng
trong một báo kỹ thuật quốc
tế, và có ít nhiều tiếng
vang trong ngành. Sự tháo
vát như vậy không phải là
không có ở một số người Việt
Nam, nhưng chưa hề thấy
trong những sinh viên Việt
Nam hay Đông Nam Á mà tôi đã
gặp, và do đó người vừa tháo
vát vừa có kiến thức gần như
không có trong giới trẻ của
ta.
Cái gì cũng có mặt trái của
nó, và lối giáo dục của Úc
cũng đưa dến một vài tính
chất không được tốt dưới mắt
người Việt. Ở một số người
nó sẽ phát triển cao vọng
quá cao, tính kém khiêm
nhường, kém xã giao, nhiều
cạnh sắc gây đụng chạm với
người chung quanh. Xã hội Úc
và Tây phương nói chung chấp
nhận những "tính xấu" này
hơn là xã hội Việt Nam, họ
không coi là quan trọng mà
coi là sản phẩm phụ của lối
giáo dục khuyến khích tự tin
và sáng tạo. Tuy không ai
thích những người như vậy
nhưng không thể tránh được
trong một thành phần nào đó
của xã hội.
Trong bài này, tôi đã nói về
một sự khác biệt rất quan
trọng về định hướng giữa
giáo dục Việt Nam và giáo
dục Tây phương: sự đào luyện
để phát hiện và giải quyết
vấn đề. Đem một định hướng
mới vào giáo dục không phải
là chuyện sớm chiều mà cần
cả một thế hệ. Hy vọng rằng
khi đã NHÌN THẤY vấn đề, các
nhà giáo dục ở Việt Nam sẽ
tìm cách GIẢI QUYẾT một cách
mạnh dạn và sáng tạo. Trong
một thế giới năng động và
dynamic, biến chuyển càng
ngày càng nhanh, với những
yếu tố mới chưa từng thấy
trong lịch sử loài người
trong những thiên kỷ trước,
vấn đề mới càng ngày càng
nhiều và nghiêm trọng, về
mọi mặt kỹ thuật, môi
trường, xã hội, chính trị,
kinh tế, đạo đức. Để khỏi
tụt hậu càng ngày càng xa,
để phát triển, chúng ta cần
phát triển những con người
bén nhậy trong việc phát
hiện và giải quyết những vấn
đề của nước ta.
Xin xem tiểu sử và công
trình
Gs. Phạm Quang Tuấn
nơi:
http://www.ceic.unsw.edu.au/staff/Tuan_Pham/
|
©
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org Phạm Quang Tuấn
|