Phát triển khoa học, công nghệ cùng với giáo
dục đã từng được trịnh trọng nêu lên là quốc
sách hàng đầu, song cho đến nay khoa học,
công nghệ vẫn chưa thật sự khởi sắc. Phải
chăng vì đầu tư chưa đủ mức, vì đội ngũ khoa
học, công nghệ của ta quá yếu kém, hay vì
nguyên nhân gì khác ? Câu hỏi này đã từng
đặt ra nhiều lần. Và cũng đã nhiều lần các
cơ quan quản lý nhận định đúng đắn rằng
nguyên nhân quan trọng nhất, nếu không nói
chủ yếu, là
thiếu chính
sách thich hợp để động viên và
phát huy tiềm năng của đội ngũ khoa học.
Tiếc thay, chúng ta thường chỉ nhận định
xong rồi để đó, vài năm sau lại lặp lại y
như trước, làm mất hết lòng tin của những
người thiết tha với sự nghiệp. Lần gần đây
nhất là năm 2001, hưởng ứng lời kêu gọi của
Thủ Tướng, nhiều người đã góp những ý kiến
rất chân thành, tha thiết, mà rồi, cũng như
các lần khác, mọi ý kiến tiếp tục chìm trong
im lặng, ngoại trừ Nhà Nước tốn thêm mấy
trăm triệu chi cho các cơ quan “nghiên cứu
cơ chế chính sách” để sản xuất thêm một số
kiến nghị đút vào ngăn kéo vốn đã đầy ắp
những văn kiện tương tự. Mong rằng lần này,
với áp lực hội nhập, chúng ta sẽ
làm việc
nghiêm túc hơn, trung thực, thẳng thắn và kỹ
càng hơn, để có những hành động thiết thực,
tạo được chuyển biến thật sự, gây lòng tin
đã được chờ đợi từ quá lâu rồi.
"Có thực
mới vực được đạo"
Trong giáo dục đã từng có ý kiến đổ lỗi
những sự trì trệ, bê bối cho sự yếu kém của
đội ngũ giáo viên. Trong khoa học chúng ta
cũng thường được nghe những ý kiến chê trách
đội ngũ khoa học. Của đáng tội, bệnh hám
danh, cơ hội, chạy theo chức tước địa vị, đố
kỵ, kém ý thức hợp tác, v.v., khá phổ biến
trong giới khoa học. Song theo tôi, cần lật
ngứợc lại cách suy nghĩ để thấy rằng một
phần khá lớn những yếu kém đó chẳng qua cũng
chỉ là hậu quả tất yếu của những bất cập, hư
hỏng, kéo dài hàng chục năm nay của bộ máy
quản lý, không chỉ thiếu tầm, mà thiếu cả
tâm, và không phải chỉ từ cấp thừa hành mà
từ cấp cao.
Nói gì thì nói, xây dựng chính sách khoa học
phải nhằm mục tiêu phát huy tối đa năng lực
khoa học của đất nước, làm sao cho hiệu suất
lao động khoa học đạt mức cao nhất có thể
được. Muốn vậy, cần hiểu đúng một số đặc thù
của lọai lao động này, các nhu cầu vật chất,
tinh thần, cần đáp ứng để nhà khoa học có
thể làm việc hết sức mình và cống hiến.
Trước hết là
lương và thu
nhập thực tế, vì có thực mới
vực được đạo, như ta thường nói.
Cách đây không lâu, nhân giải thich những
tiêu cực nghiêm trọng trong ngành đăng kiểm
vừa bị báo chí phanh phui, một quan chức
phàn nàn rằng lương trung bình một nhân viên
đăng kiểm chỉ khoảng 3 triệu/tháng là quá
thấp. Thật lạ lùng, trong lúc đó, lương một
giáo sư giỏi đại học chỉ hai triệu/tháng mà
rất ít thấy vị lãnh đạo nào xót xa, mặc dù
đã bao lần bàn thảo về các biện pháp và
chiến lược phát triển khoa học và giáo dục.
Từ lâu các nhà khoa học đã được bảo: Nhà
Nước chỉ đủ tiền trả lương chừng ấy, các anh
hãy tự xoay xở ! Và thực tế, sau mấy năm, họ
cũng tự xoay xở được cả, đến nay phần đông
có mức sống chẳng đến nỗi nào, một số còn
giàu lên, thu nhập phụ hàng tháng lên tới
hàng chục triệu, đâu kém gì mức trần
1000-2000 USD do Bộ KH và CN đề nghị cho
những nhà khoa học “xuất sắc” đảm nhận nhiệm
vụ quốc gia !
Chỉ có điều mức thu nhập phụ đó
ở đâu ra,
phải trả bằng những giá nào cho khoa học,
giáo dục và kinh tế, thì các Bộ
Tài Chính, Nội vụ, Giáo dục, và Khoa học nên
suy nghĩ có trách nhiệm hơn.
Với cách trả lương kỳ quặc này, nhà khoa học
chỉ có thể dùng một phần nhỏ thời gian và
tâm trí để làm khoa học theo đúng trách
nhiệm, còn lại phải làm những việc khác, tuy
không đúng với năng lực, sở trường và trách
nhiệm, nhưng đem lại phần lớn thu nhập cho
họ.
Rốt cuộc, tổng số tiền của xã hội đầu tư cho
khoa học dù còn ít nhưng không nhỏ đối với
chúng ta (kể cả công quỹ và mọi nguồn khác),
thế mà sau hàng chục năm, khoa học vẫn còi
cọc, nhiều ngành
cứ lịm dần,
chờ ngày bị xóa sổ nếu không được hồi sức
kịp thời. Chỉ xin nêu ra một vài
ngành khoa học cơ bản: không kể một số ít
giáo sư trình độ cao, nhưng tuổi còn cao
hơn, và một số ít người trẻ tài năng còn làm
việc trong nước, thì còn gì ? Dăm năm nữa số
đầu bạc nghỉ hẳn, hoặc nằm xuống hoặc đuối
sức, còn số trẻ giỏi thì tiếp tục tìm đường
đi ra, trong lúc đó, với cơ chế quản lý này,
rất ít người trẻ đã thành tài ở nước ngoài
muốn trở về nước làm việc. Đến khi ấy, tuổi
trung bình của các nhà khoa học đang thật sự
hoạt động trong các ngành này sẽ là bao
nhiêu ? 65 ? 70 ? Đó có phải là chết lịm
dần hay không ?
Nhưng cái hại của chính sách lương sai lầm
không phải chỉ có thế. Nếu trong toàn bộ hệ
thống quản lý nhà nước nó là nguyên nhân cơ
bản sản sinh ra và nuôi dưỡng tham nhũng
tràn lan, thì trong khoa học nó tác động
nặng nề đến tính trung thực, khiến sự gian
dối, làm láo báo cáo hay, hoặc như báo Lao
Động đã có lần viết, “treo đầu dê bán thịt
chó”, không phải chuyện hiếm trong làng khoa
học.
Trên một nền tảng đạo đức học thuật như vậy
mà số tiến sĩ, “viện sĩ” dỏm mỗi năm đều
tăng với một mức không có nước nào trong khu
vực bì kịp thì thử hỏi sự ô nhiễm môi trường
khoa học nguy hiểm đến đâu. Khi sự gian dối
đã len vào mọi hoạt động khoa học và giáo
dục thì nó có nguy cơ biến thành một nếp
sống, một nét văn hóa phổ biến cực kỳ xấu xa
của xã hội.
Vì vậy để có chuyển biến thật sự chẳng những
trong khoa học, công nghệ mà trong nhiều
ngành quan trọng khác nữa, vấn đề cấp bách,
vấn đề
của mọi vấn đề, là cần
giải quyết
thỏa đáng chế độ lương cho nhà khoa học,
để họ không phải kiếm sống bằng những công
việc khác, mà có thể dành hết tâm trí cho
khoa học. Nhiều quan chức nói rằng điều này
không khả thi vì chỉ muốn nâng lương cho mỗi
nhà khoa học vài triệu đồng/tháng thôi cũng
đã vượt quá khả năng của ngân sách. Song
không phải như vậy. Một bài nghiên cứu của
TS Vũ Quang Việt đăng trên VietNamnet cách
đây không lâu về những con số giật mình
trong các chi tiêu giáo dục, đã chứng minh
điều ngược lại.
Điều kiện và môi trường làm việc: Bệ
phóng cho nhà khoa học
Tuy nhiên, lương, dù cấp bách đến đâu cũng
chưa phải là tất cả vấn đề. Kinh nghiệm cho
thấy Kuwait, Brunei, hay một số nước giàu có
khác, trả lương rất cao mà khoa học của họ
có ra gì. Ngay trong nước ta, chính sách
“chiêu hiền đãi sĩ “ của một số địa phương
đưa ra mấy năm qua cũng chỉ để tuyên truyền
nhiều hơn chứ đã có mấy kết quả thiết thực.
Ai dấn thân vào khoa học đều hiểu rằng đây
không phải là nghề để làm giàu. Một phát
minh khoa học thường phải có thời gian mới
thấy hết lợi ích của nó, hơn nữa do những
tương quan liên ngành chằng chịt trong khoa
học và công nghệ ngày nay, không phải lúc
nào cũng có thể đánh giá dễ dàng lợi ích
trực tiếp của một ngành khoa học riêng lẻ
hay một phát minh khoa học riêng lẻ đối với
sản xuất và đời sống. Trái lại, một quyết
định sáng suốt của nhà quản lý giỏi có thể
đem lại hàng tỉ đô la lãi cho công ty trong
thời gian ngắn, hoặc một sáng kiến kỹ thuật
cũng có thể làm lợi ngay được hàng triệu đô
la. Vì thế, dễ hiểu rằng ở các nước tiên
tiến lương của tổng giám đốc hay chủ tịch
hội đồng quản trị các công ty lớn thường cao
hơn nhiều lần lương các bác học lớn. Song
điều đó hoàn toàn không có nghĩa xã hội đánh
giá thấp sự đóng góp của nhà khoa học, mà
chẳng qua chỉ phản ảnh một đặc thù của hoạt
động khoa học.
Nhà khoa học cần mức lương thỏa đáng, là để
bảo đảm một mức sống tương đối, chứ không ai
nghĩ đến mấy chục triệu hay mấy trăm triệu
như giám đốc nhiều doanh nghiệp nhà nước,
mà món nợ khổng lồ có lẽ sẽ còn đè nặng lên
vai con cháu chúng ta nhiều thế hệ nữa. Cho
nên vấn đề lương cho nhà khoa học không phải
quá khó, nếu cơ quan quản lý thật sự quan
tâm. Điều khó hơn nhưng lâu nay ít được chú
ý là trên cơ sở đồng lương thỏa đáng còn cần
phải bảo đảm những
điều kiện, và môi trường làm việc
thích hợp thì mới thật sự khuyến khích được
lao động khoa học.
Đam mê của nhà khoa học, niềm vui của họ, là
sáng tạo, muốn phát huy tối đa năng lực sáng
tạo đó họ cần lương đủ để dành trọn thì giờ
làm việc. Nhưng đồng thời để làm việc có
hiệu quả họ còn cần chỗ làm việc đủ tiện
nghi tối thiểu, cần phương tiện làm việc
thuận tiện (phòng thí nghiệm, thư viện,
internet, thông tin, liên lạc), cần hậu cần
khoa học tốt (hỗ trợ các việc văn phòng),
v.v. , cần sự thông cảm, ủng hộ và tôn trọng
của xã hội và các cơ quan quản lý, cần có
bạn bè, đồng nghiệp, học trò, và bầu không
khí sinh hoạt học thuật dân chủ, phóng
khoáng, lành mạnh, khuyến khích sự trao đổi
bình đẳng giữa các ý kiến khác nhau, v.v.
Chỉ với những điều kiện và một môi trường
như thế mới hy vọng có nhiều nhà khoa học
làm việc ngày đêm, lăn xả vào những nhiệm vụ
khó khăn nhất, như thường thấy ở các trung
tâm khoa học lớn trên thế giới.
Một chính sách khoa học không chú ý đầy đủ
các đặc thù nói trên dễ phạm sai lầm ấu trĩ
và bất cập. Chẳng hạn, vì không hiểu cơ chế
tác động qua lại phức tạp giữa khoa học và
thực tiễn nên khi thì đòi hỏi máy móc mọi
công trình khoa học phải có ứng dụng ngay
vào đời sống và sản xuất, khi khác lại tôn
vinh những giá trị khoa học vu vơ, khuyến
khích tâm lý chạy theo danh hão rất nặng nề
(và khá tốn kém, vì những danh hão ấy đều
mua bằng ngoại tệ). Cũng vì không chú ý các
đặc thù của khoa học nên một mặt coi thường
lương, mặt khác cho phép sử dụng phần lớn
kinh phí cấp phát cho các đề tài khoa học để
bổ sung thu nhập, mà việc duyệt và nghiệm
thu đề tài lại rất tùy tiện, hình thức,
không khuyến khích tài năng mà chỉ kích
thích các hoạt động tiêu cực. Tiền lương đã
thế, còn chỗ làm việc thì theo quy định của
Bộ tài chính giáo sư không có buồng làm
việc riêng, ít ra phải nhiều năm nữa mới
được chỗ làm việc 6m2/người, không bằng
không gian cho một phó phòng hành chính cấp
thấp hiện nay; một giờ giảng của giáo sư
được trả 12000đ, còn một giờ giảng của Thứ
bộ trưởng, bất cứ trình độ nào, cũng được
trả 15000đ. Dù đây chỉ là những quy định
hình thức vớ vẩn nhưng cũng đủ phản ảnh khá
rõ mức độ tôn trọng của các cơ quan nhà nước
đối với khoa học như thế nào.
Với những điều kiện và môi trường như vậy,
lương có cao bao nhiêu cũng khó thu hút được
các nhà khoa học giỏi. Cho nên, trong buổi
làm việc hồi tháng 9 với Thủ Tướng tôi có
nói: nhà khoa học cần lương, nhưng cái cần
hơn nữa là điều kiện và môi trường làm việc.
Thưa Bộ trưởng Bộ Khoa học Công
nghệ!
Thật đáng kinh ngạc, một điều đơn giản như
thế mà ông Bộ trưởng KH và CN cũng không
hiểu nổi, khi ông nói: Đừng tin những
nhà khoa học nói không cần tiền, họ nói thế
là không thật lòng (giả dối !), không thực
sự cầu thị; tại sao “khinh” tiền, đồng tiền
của người dân, người ta làm “đổ mồ hôi sôi
nước mắt” ! Ôi giá như đây là điều tâm
niệm của các quan chức như ông Bộ trưởng thì
đâu đến nỗi lương một giáo sư chỉ có vài
triệu/tháng, và hôm nay chúng ta đâu phải
nhắc nhở nhau nhớ tới đồng tiền của dân để
bàn về cái đề án đấu thầu đề tài khoa học mà
hễ ai “chê” thì hẳn là người có tư duy cổ hủ
!
Thưa ông Bộ trưởng, trong quản lý kinh tế,
chúng ta đã (và đang) trả giá đắt cho hàng
trăm doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ
bạc tỉ mà giám đốc vẫn hưởng lương cao ngất
ngưởng, gây thiệt hại lớn cho xã hội. Các
doanh nghiệp ấy đều do Nhà Nước lập ra và
“chọn mặt gửi vàng” để giao quyền quản lý
trọn gói cho các giám đốc. Họ cũng được bảo:
cái gì cần tiêu cứ tiêu thoải mái, Nhà Nước
chỉ quan tâm kết quả; còn các dự án phải đấu
thầu nghiêm chỉnh. Thế nhưng việc gì đã xảy
ra ở công ty dầu khí, PMU 18, v.v. ông có
biết không ? Ông có bảo đảm rằng các cơ quan
khoa học mà trong quá khứ không thiếu tiếng
này điều kia sẽ hoàn toàn trong sạch khi ông
phụ trách ?
Với thiện chí tôi có thể tin được lời hứa
tốt đẹp, song kinh nghiệm các xã hội văn
minh đều cho thấy
tránh sự cám
dỗ vẫn an toàn hơn là đương đầu với nó.
Vậy có nên bê cách quản lý tập trung quan
liêu vào khoa học không ?
Thật trớ trêu, trong lúc chúng ta đang cần
thoát ra khỏi cái ách quản lý tập trung quan
liêu, chẳng lẽ riêng ngành quản lý khoa học
lại “đổi mới tư duy” bằng cách quay trở lại
cái ngõ cụt đáng nguyền rủa ấy ?
Tôi đã có dịp làm nghiên cứu khoa học và
thẩm định các đề tài khoa học ở nhiều nước,
không thấy ở đâu có kiểu quản lý khoa học
như chúng ta. Bộ KH và CN nói là học tập
cách quản lý của Mỹ, Nhật, nhưng tôi có thể
khẳng định cách làm của ta hoàn toàn khác,
mà những cái khác ấy cũng chẳng phải do xuất
phát từ đặc điểm gì riêng của ta cả.
Làm một con đường, xây một nhà máy, là những
công việc phức tạp nhưng đã có sẵn quy
trình, và kết quả biết trước chắc chắn, do
đó có thể đấu thầu để chọn phương án rẻ
nhất, tốt nhất, lợi nhất. Còn nghiên cứu
khoa học là tìm cái mới, dò dẫm, có khi
không tìm được cái định tìm nhưng lại tìm ra
cái không dự kiến, quá trình sáng tạo không
thể chắc chắn 100% mà thường có nhiều yếu tố
bất ngờ. Cho nên chẳng ở đâu có chuyện đấu
thầu để thực hiên một đề tài khoa học định
sẵn, mà cũng chẳng ở đâu Nhà Nước định ra cả
trăm đề tài khoa học cụ thể rồi đưa ra đấu
thầu trong giới khoa học.
Nhà khoa học muốn sáng tạo cần có cái gọi là
“tự do hàn lâm” (academic freedom) trong
phạm vi nhất định, và thông thường chỉ có
chuyên gia từng lĩnh vực, am hiểu và có kinh
nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực đó mới
biết nên nghiên cứu đề tài gì và cần phương
tiện gì.
Và cũng chỉ có chuyên gia cùng ngành (peer)
với họ mới có thể đánh giá và thẩm định một
đề tài nào đó có đáng được nghiên cứu hay
không. Chứ làm sao một nhóm người nào đó,
dù tất cả là bậc thầy chăng nữa, có thể sáng
suốt định ra được 95 đề tài khoa học cụ thể
để cho các nhà khoa học VN đấu thầu kinh phí
nghiên cứu?
Làm như thế có khác gì để phát triển văn
học, Nhà Nước chọn ra 95 đề tài tiểu thuyết
rồi kêu gọi các nhà văn đấu thầu để được
giao kinh phí viết tiểu thuyết theo từng đề
tài ấy ? Như thế mà lại gọi là vận dụng cơ
chế thị trường váo quản lý khoa học ư ?
Ở các nước ngưới ta không làm máy móc như
vậy. Nhà Nước chỉ xác định một số hướng ưu
tiên (thường không nhìều lắm) để tập trung
đầu tư cho những nghiên cứu về các hướng đó,
thông qua các viện hay đại học (công hay tư)
do Nhà Nước lập ra (như Viện KIST ở Hàn
Quốc) hay các tổ chức tư nhân lập ra.
Tuy nhiên trong mỗi hướng ưu tiên, cần
nghiên cứu đề tài gì vẫn phải do chuyên gia
bàn thảo và quyết định. Nhà Nước thực hiên
sự kiểm tra qua các sản phẩm làm ra, thể
hiện ở các ứng dụng thực tế hay các công
trình được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành quốc tế.
Đối với các nghiên cứu thuộc những hướng ưu
tiên thì như vậy, còn những đề tài nhằm giải
quyết những vấn đề thiết thân của từng doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp tự làm, với sự
hợp tác và giúp đỡ của các đại học và viện
nghiên cứu. Các đề tài chưa rõ địa chỉ ứng
dụng cụ thể hoặc có tính chất lâu dài về
khoa học cơ bản, đòi hỏi nhiều đầu tư có
tính rủi ro cao thì do chuyên gia ở các
đại học và viện nghiên cứu chọn rồi có thể
xin tài trợ của Nhà Nước (hoặc các tổ chức
tư nhân) thông qua các quỹ hỗ trợ nghiên cứu
khoa học.
Đề tài nào muốn được tài trợ thì làm đề án
gửi lên cơ quan quản lý quỹ hỗ trợ, ở đây họ
tổ chức lấy ý kiến thẩm định của các chuyên
gia cùng lĩnh vực (peer review) và dựa vào
đó quyết định tài trợ cho những đề tài
nào.
Quy tắc quản lý tài chính của các đề tài rất
rành mạch: chỉ các đề tài nghiên cứu do các
doanh nghiệp đặt hàng theo nhu cầu của họ
mới có thể có thù lao, hay thưởng công cho
người nghiên cứu, còn các đề tài khác thì
kinh phí thường chỉ được phép dùng để chi
cho các nhu cầu về phương tiện nghiên cứu
(mua sắm thiết bị, vật liệu, phần mềm, tham
gia các hội nghị học thuật, mời nhà khoa học
ở nơi khác đến để hợp tác nghiên cứu,
v.v..), chứ không có phần “trả công” để
tăng thu nhập cá nhân cho người nghiên
cứu.
Như vậy lợi ích thực tế mà nhà khoa học được
hưởng không phải ở chỗ được trả công nghiên
cứu (vì coi việc nghiên cứu là nhịệm vụ, đã
được tính đến trong lương), mà ở chỗ được có
điều kiện nghiên cứu về những vấn đề mình
tâm đắc; mỗi đề tài được tài trợ cùng với
các kết quả nghiên cứu là những bằng chứng
thành tích hoạt động khoa học, được ghi nhận
trong hồ sơ cá nhân có lợi cho sự thăng tiến
nghề nghiệp của nhà khoa học.
Như vậy động lực thúc đẩy nghiên cứu không
phải là thu nhập trực tiếp qua đề tài mà là
lợi ích lâu dài và cơ bản của công tác
nghiên cứu. Khi đề tài thực hiện xong không
cần tổ chức nghiệm thu như ta làm một cách
hình thức và thường không khách quan, mà chỉ
cần báo cáo kết quả cho cơ quan tài trợ.
Việc thẩm định các đề tài để tài trợ không
chỉ căn cứ vào nội dung đề tài, ý nghĩa và
tính khả thi của nó mà còn xét các thành
tích nghiên cứu mấy năm gần đây nhất của nhà
khoa học, trong đó một phần quan trọng là
kết quả thực hiện các đề tài trước đã được
hưởng tài trợ. Nếu một đề tài được tài trợ
mà ít kết quả thì không có hy vọng đề tài
sau được tiếp tục nhận tài trợ. Thành thử,
tuy không nghiệm thu mà vẫn buộc người
nghiên cứu thực hiện nghiêm túc.
Xin đừng
“trịch thượng”
Đó mới là cách quản lý văn minh, dành sáng
kiến, chủ động tối đa cho nhà khoa học, tôn
trọng tối đa nhà khoa học, đồng thời bảo đảm
đầu tư có hiệu quả. Có thể không nên áp dụng
nguyên xi các kinh nghiệm này cho chúng ta,
nhưng cái tư duy cơ bản của nó thì đáng học
tập, và đó là điều chúng tôi muốn nói khi
phát biểu với Thủ Tướng. Dù đồng ý hay
không, Bộ KH và CN cũng nên tỏ thái độ
nghiêm túc lắng nghe các ý kiến trái với
mình. Không nên đáp lại các ý kiến chân
thành bằng lời lẽ thiếu nhã nhặn, kiểu ứng
xử đó không thích hợp với tinh thần xã hội
dân chủ, văn minh. Và cũng xin đừng gọi các
nhà khoa học trẻ (dưới 45, theo nội dung của
bài phát biểu) bằng “các em”, đó là cách gọi
“xoa đầu” trịch thượng, thể hiện sự thiếu
tôn trọng cần thiết. |