Năm học mới đã bắt đầu,
năm học đầu tiên của thế kỷ 21. Giữa lúc suy thoái kinh tế và thất nghiệp
đang đe doạ lan tràn khắp nơi, hầu hết các nhà trường trên thế giới văn
minh vẫn tích cực bứơc vào hiện đại hoá giáo dục. Còn chúng ta thì sao ? có
cần hiện đại hoá không và hiện đại hoá như thế nào, tương lai đất nước phụ
thuộc một phần khá lớn vào lời giải đáp cho câu hỏi này.
1. Vì sao
cần hiện đại hoá giáo dục?
Ai cũng biết dân ta tha
thiết với việc học như thế nào. Vậy mà từ nhiều năm nay giáo dục của ta vẫn
ì ạch, chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, với những khó khăn bế tắc tự gây
ra và nhiều chứng bệnh tiêu cực kéo dài quá lâu, không biết đến bao giờ mới
chấm dứt được. Tâm trạng của người dân, như đã được phản ảnh qua các báo chí
(Tuổi trẻ, Lao dộng, v.v.) nhân ngày khai giảng năm học mới, nói chung vẫn
lo lắng nhiều hơn phấn khởi.
Mà không lo lắng sao
được: trong một thế giới toàn cầu hoá, cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết,
nước nào cũng xem giáo dục là vũ khí chiến đấu chính. Có chăng chỉ chúng ta
còn mơ hồ về sức mạnh của vũ khí này, mặc dù Hiến pháp đã ghi rõ giáo dục là
quốc sách hàng đầu.
Theo dự báo của một số
học giả (tạp chí The Economist, 1993), nếu cứ như xu thế hiện nay thì đến
khoảng 2020, sẽ có 9 trong 15 nước giàu có nhất hiện nay tụt xuống hàng
những nước mà bây giờ ta gọi là đang phát triển. Ngược lại, một số quốc gia
hiện chưa giàu có gì đặc biệt có thể vượt lên hàng những nước phát triển
nhất. Trong cả hai trường hợp, yếu tố quyết định hàng đầu là giáo dục.
Có người nghĩ đơn giản
rằng người VN chúng ta thông minh, hiếu học, cần cù thì chẳng có gì đáng lo
khi thế giới chuyển sang lấy tri thức làm nguồn lực phát triển chủ yếu.
Nhưng kinh nghiệm hai mươi năm qua là một bài học đắt giá: chúng ta càng tự
nhận thông minh không kém bất kỳ ai thì càng tụt hậu dài dài trong nhiều
lĩnh vực khoa học, giáo dục, ngay cả so với những nước chẳng phải xuất sắc
gì trên thế giới. Nói ra đáng tủi hổ nhưng là sự thật, chỉ có các học vị,
học hàm rởm, những TS,VS giấy, những chức vị hư danh thì không nước nào trên
thế giới sản xuất nhanh, nhiều, rẻ bằng ta. Mà khi những thứ này tràn ngập
xã hội thì còn chỗ đâu cho trí tuệ chân chính phát triển.
Với một nền giáo dục yếu
kém, chắc chắn kinh tế sẽ mất sức cạnh tranh. Các nước ASEAN vừa qua đã nhận
định đúng đắn rằng vấn đề trung tâm hiện nay là nâng cao chất lượng và trình
độ nhân lực. Dĩ nhiên muốn thực hiện điều này không có cách nào khác là nâng
cấp, hiện đại hoá giáo dục, để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn
kinh tế tri thức.
2. Giáo dục trong thế kỷ 21
Như vậy, hiện đại hoá
giáo dục là nhiệm vụ cấp bách nếu chúng ta không muốn bị thua thiệt khi hội
nhập và cạnh tranh quốc tế. Vấn đề là hiện đại hoá như thế nào và bằng cách
nào ?
Để trả lời câu hỏi này
trước hết cần hình dung những nét chính, những yêu cầu của đời sống trong xã
hội văn minh ở kế kỷ 21.
Như đã rõ, xu hướng chung
của thế giới ngày nay là tiến tới toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, dựa trên
nền tảng sáng tạo khoa học và công nghệ. Đó là một thế giới đang trong quá
trình thay đổi cực nhanh, cả về cuộc sống vật chất và văn hoá, theo từng đợt
sóng cách mạng công nghệ liên tiếp, dồn dập như trước đây chưa hề thấy, dễ
dàng bỏ lại hay nhận chìm các quốc gia không vượt qua được, không thích ứng
nổi, hoặc thích ứng chậm với những đợt sóng ấy. Về phương diện liên quan
trực tiếp đến giáo dục, đợt sóng mới về công nghệ thông tin, đặc biệt là số
hoá và đa truyền thông không dây, sẽ có ảnh hưởng lớn lao đến quá trình phổ
biến, tiếp thu, xử lý, vận dụng và sáng tạo tri thức. Cho nên nói đến giáo
dục thế kỷ 21 là nói đến một nền giáo dục đặt trên cơ sở thích ứng với những
điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển đó của xã hội mới.
Đối với dân tộc ta, muốn
thực hiện các mục tiêu cơ bản: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, cũng không thể tách rời các xu thế chung của thời đại.
Trong bối cảnh đó, nhiều
người khi nói tới hiện đại hoá giáo dục thường chỉ nghĩ đến việc vận dụng
các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông
tin, trong giảng dạy và học tập. Điều này đương nhiên quan trọng, song cái
chính chưa phải ở đó. Cái chính là thay đổi tư duy giáo dục, xác định lại
quan niệm về mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường, từ đó thay đổi cung
cách dạy, học, và phưong pháp, nội dung, tổ chức và quản lý giáo dục,
nhằm xây dựng một nền giáo dục phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội và cuộc
sống trong kỷ nguyên kinh tế tri thức.
Trong thời đại mà cơ may
tồn tại và phát triển của các quốc gia dựa trên sự thông minh, tài trí của
cộng đồng nhiều hơn là của cải, tài nguyên sẵn có, phương châm giáo dục
không còn là cung cấp bửu bối, nhồi nhét càng nhiều kiến thức càng tốt, mà
là rèn luyện khả năng tư duy, khả năng thích ứng mau lẹ, rèn luyện đầu óc và
nhân cách, để có những con người ném vào hoàn cảnh nào cũng xoay xở và vươn
lên được, tự khẳng định mình đồng thời thúc đẩy cộng đồng tiến lên. Trước
đây, nhà trường thường chăm chú đào tạo những lớp người theo những khuôn mẫu
nhất định, ngoan ngoản và cần mẫn làm việc theo những ước lệ và định chế sẵn
có, quen được dẫn giắt, bao cấp, làm theo, hơn là độc lập suy nghĩ và tự
chịu trách nhiệm. Những mẫu người như thế không thể là mục tiêu đào tạo của
nhà trường khi bước sang thế kỷ 21. Đương nhiên, thời nào, xã hội nào cũng
cần những con người có nhân cách: trung thực, thẳng thắn, nhân ái, v.v... ,
nên nhà trường không thể vin vào cớ thời đại khoa học công nghệ mà lơ là
việc rèn luyện các phẩm chất đạo đức cơ bản đó. Song điều đáng nói ở đây là
ngoài các phẩm chất đó, xã hội hiện đại còn cần những con người có cá
tính (thời nay không cá tính thường đồng nghĩa với vô tích sự), biết
giao tiếp và hợp tác (thời nay cá nhân đơn độc khó làm việc gì
thật có ý nghĩa), có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, sẵn sàng
chấp nhận mạo hiểm, không ngại trả giá để có những thành công lớn,
và nhất là phải có đầu óc sáng tạo, yếu tố then chốt thúc đẩy xã hội
tiến lên trong kỷ nguyên mới.
Trên quan điểm tổng quát
đó, giáo dục ở thế kỷ 21 sẽ phải đặc biệt chú ý những vấn đề chính sâu đây.
1) Trong thời kinh tế tri
thức, đương nhiên tri thức là quan trọng, nhưng như trên đã nói, yếu tố
quyết định sức sống và vươn lên của một cộng đồng là khả năng sáng tạo, mà
muốn sáng tạo thì chỉ có tri thức thôi chưa đủ, còn phải có đầu óc tưởng
tượng. Tri thức mà thiếu trí tưởng tượng thì không thể sử dụng linh hoạt
và dễ biến thành tri thức chết, tri thức không phát triển được. Có tri thức
mà thiếu đầu óc tưởng tượng thì chỉ có thể làm theo, bắt chước, không nghĩ
ra được ý tưởng mới, mà trong xã hội ngày nay, dù là lĩnh vực kinh
doanh, khoa học, công nghệ hay văn hoá, nghệ thuật, không có ý tưởng mới có
nghĩa là vô vị, nhàm chán, không có sức thu hút, không đủ sức cạnh tranh.
Thật không có gì tai hại hơn cho xã hội bằng chứng bệnh xơ cứng tư duy. Do
đó giáo dục ở thế kỷ 21 không thể chỉ coi trọng tri thức mà còn
phải chú ý rèn luyện trí tưởng tượng, làm cơ sở cho tư duy sáng tạo.
Ngay từ tuổi nhỏ học sinh phải làm quen độc lập suy nghĩ, tập nghiên cứu,
sáng tạo, tập phát hiện và giải quyết vấn đề, hơn là học thuộc lòng và nhồi
nhét kiến thức (vì thế phải bớt giờ nghe giảng thụ động, tăng các hình thức
dự án, khoá luận, tham luận, v.v.). Đặc biệt đại học càng phải coi trọng đầu
óc, phong cách và kỹ năng nghiên cứu khoa học hơn bao giờ hết.
Đối với nứơc ta, phương
châm này còn đáng chú ý thêm một bậc nữa vì dân ta vốn quen sao chép quá
nhiều, trong hàng nghìn năm lối học tầm chương trích cú đã hạn chế ngặt
nghèo trí tưởng tượng của ông cha ta. Chỉ trừ trong đấu tranh chống ngoại
xâm, còn trên mọi lĩnh vực khác, về triết học, tư tưởng, văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, kinh tế, phải nhận rằng trí tưởng tượng VN không thuộc
loại xuất sắc trên thế giới. Đó là điểm yếu, rất yếu của chúng ta, nếu giáo
dục (và không phải chỉ giáo dục) không chú ý sớm khắc phục thì xã hội khó
mà tiến nhanh được. (Ai không tin chỉ việc quan sát hàng đồ chơi đang bày
bán khắp nơi cho trẻ em nhân dịp trung thu này: toàn là đồ chơi Trung Quốc,
đâu phải cao siêu gì, nhưng phong phú về chủng loại, cách trình bày,v.v. còn
đồ chơi VN thì nghèo nàn, ít hấp dẫn, năm này qua năm khác chỉ quanh quẩn
mấy thứ trẻ em ta đã nhàm).
2) Công bằng, dân chủ là
xu hướng của xã hội tiến bộ hiện đại, dù cho cách hiểu và cách thực thi còn
nhiều điểm khác nhau tuỳ mỗi nước. Trong giáo dục công bằng, dân chủ
có nghĩa là bảo đảm cho mọi công dân quyền bình đẳng về cơ hội học tập và
cơ hội thành đạt trong học vấn. Bước vào kinh tế tri thức, đó không chỉ
là một nguyên tắc đạo đức, đó còn là điều kiện tối cần thiết để bảo đảm sự
phát triển của xã hội. Vì chỉ khi có công bằng, dân chủ trong giáo dục, chỉ
khi mọi người, dù giàu nghèo, sang hèn, đều có cơ hội học tập và thành đạt
ngang nhau, khi đó tiềm năng trí tuệ của xã hội mới được khai thác hết. Trên
thực tế điều đó có nghĩa là không để cho bất cứ ai chỉ vì nghèo khó mà không
được học đến nơi đến chốn theo sở nguyện. Phải nói rằng từ mấy chục năm
trước, dù còn khó khăn gian khổ nhưng nền giáo dục VN vốn rất tiên tiến về
mặt này. Thật trớ trêu là hơn chục năm nay, từ khi nêu cao định hướng xã hội
chủ nghiã thì giáo dục của chúng ta ngày càng xa rời công bằng và dân chủ,
đi ngược lại xu thế của thời đại, đi ngược lại lý tưởng cao qúy của xã hội
mà chúng ta đang hướng tới. Một thực tế rõ ràng là con em các tỉnh miền núi,
các vùng nông thôn, hay con em nhà nghèo ở thành thị, đi học đã khó mà học
lên cao càng khó hơn. Với chế độ học tập buộc phải học thêm ngoài giờ rất
nhiều, phải đóng góp vô vàn khoản tốn kém ngoài học phí, hàng năm phải mua
sắm sách giáo khoa mới, với chế độ đánh giá và thi cử tốn kém kỳ quặc bậc
nhất trên thế giới như hiện nay, nhà trường của ta đã vô tình gạt ra ngoài
cả một lớp trẻ thiếu may mắn vì trót sinh ra trong những gia đình nghèo hoặc
không ở thành phố. Báo chí đã phản ảnh quá đủ tình cảnh đáng thương của
những trẻ em ham học mà chỉ vì thiếu tiền nên không thực hiện nổi mơ ước, dù
chỉ là mơ ước rất khiêm tốn. Thế mà có người còn nói rõ: muốn học tốt phải
mất tiền, sao lại đòi Nhà Nước lo !
3) Tùy theo cá tính, mỗi
con người có những sở thích, sở trường, sở đoản riêng, sự đa dạng ấy làm nên
cuộc sống phong phú và là mảnh đất để nảy nở tài năng sáng tạo. Cho nên giáo
dục phải phóng khoáng, không hạn chế, hay kìm hãm mà trái lại phải tôn
trọng, phát triển cá tính, và muốn thế không thể gò bó mọi người trong
một kiểu đào tạo như nhau, một hướng học vấn như nhau, mà phải mở ra
nhiều con đường, nhiều hướng, tạo nhiều cơ hội lựa chọn cho thế hệ trẻ phát
triển tài năng, đồng thời cho phép họ dễ dàng chuyển sang con đường khác
khi thấy sự lựa chọn của mình chưa phù hợp. Chẳng hạn, vấn đề phân ban ở
trung học phổ thông mà trước đây ba năm đã thành đề tài rất sôi nổi. Vừa
qua có nhiều phản ứng gay gắt với cách phân ban của Bộ GDĐT chủ yếu vì cách
làm không tính đến điều kiện cụ thể trong nước và quan niệm về phân ban còn
theo lối cũ, sinh ra mâu thuẫn với yêu cầu giáo dục phổ thông. Chứ thật ra,
ở vài năm cuối trung học, nhu cầu cá biệt hoá việc học để tạo nhiều cơ hội
lựa chọn cho lớp trẻ cần phải được chú ý giải quyết thoả đáng. Vấn đề là tổ
chức quá trình giảng dạy như thế nào để làm tốt việc đó, để không hại đến
yêu cầu học vấn phổ thông, đồng thời không cứng nhắc đến mức đã lỡ chọn ban
nào rồi thì cứ thế phải theo ban đó cho đến hết, không thể thay đổi nửa
chừng nếu thấy chưa thích hợp.
4) Cho đến giữa thế kỷ
20, các nước công nghiệp đều thực thi giáo dục tiểu học bắt buộc; từ giữa
thế kỷ 20 họ chuyển sang trung học bắt buộc. Còn đại học thì cho đến những
năm 70 thế kỷ trước, vẫn còn dành riêng cho một thiểu số có tài năng để đào
tạo thành tầng lớp chuyên gia cao cấp: kỹ sư, bác sĩ, giáo sư. Sau đó dần
dần đại học mở rộng cửa, đón đông đảo thanh niên, và từ vài chục năm nay đã
chuyển sang đại học cho số đông, cho đại chúng, rồi gần đây đã trở thành
phổ cập ở nhiều nước phát triển. Ngay những nước công nghiệp mới cũng
đã thực hiện đại học cho số đông và đang tiến tới phổ cập. Sở dĩ như vậy là
do khoa học công nghệ tiến nhanh, một mặt các ngành hoạt động kinh tế ngày
càng yêu cầu lực lượng lao động phải có trình độ cao mới đảm bảo hiệu quả và
năng suất, mặt khác trình độ văn minh hiện đại cũng đòi hỏi mọi thành viên
trong cộng đồng phải có học thức cao mới hưởng thụ được đầy đủ cuộc sống của
bản thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Rất rõ ràng xã
hội văn minh ngày nay đang tiến đến chỗ trình độ học thức hai năm đầu của
đại học trở thành cần thiết cho mọi người, giống như trình độ học thức tiểu
học cách đây một thế kỷ. Vì vậy, phải tiến tới mở cửa đại học cho số
đông, rồi cho tất cả mọi người trong độ tuổi, đó là xu thế của giáo dục ở
thế kỷ 21. Xu thế này tất yếu sẽ đưa đến những thay đổi lớn về quan niệm
cũng như tổ chức, quản lý giáo dục đại học mà đặc điểm chủ yếu là sẽ rất
uyển chuyển và đa dạng.
Hiện nay giáo dục của ta
còn nhiều khó khăn, chủ yếu vì sử dụng quá lãng phí các nguồn lực cho nên
ngay đến phổ cập THPT xem ra cũng còn là mục tiêu xa vời. Thế mà đã có tiếng
kêu thừa thầy thiếu thợ, hàm ý quá nhiều nguời tốt nghiệp đại học mà không
có mấy công nhân kỹ thuật. Thật ra, cả thợ và thầy đều thiếu. Ngay cả nếu
thầy thợ của ta đào tạo thật đúng chất lượng thì cũng vẫn thiếu, cái sự thừa
ấy chẳng qua là do quan niệm còn quá cũ về thầy, thợ. Dù thế nào, muốn hội
nhập quốc tế mà không thua thịệt, phải mau chóng tăng số năm học trung bình
của lực lượng lao động, dần dần đuổi kịp các nước trong khu vực (Thái lan có
lực lượng lao động với học thức trung bình hơn ta, thế mà mấy năm gần đây
vẫn mất nhiều cơ hội thu hút đầu tư của nưóc ngoài, thì ta càng phải lo lắng
hơn).
5) Trong khi nâng cao
dân trí, mở rộng cửa nhà trường, kể cả đại học, cho đông đảo người dân, thì
giáo dục không thể coi nhẹ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Trái lại,
phải rất chú trọng tài năng, khắc phục bình quân và trung bình chủ nghĩa
vốn là nhược điểm thường thấy ở các nước nghèo. Xưa nay sự hưng thịnh của
các quôc gia một phần rất quan trọng, nếu không nói là quyết định, là do bởi
có nhiều tài năng xuất chúng được nâng niu, nuôi dưỡng và được tạo điều kiện
phát triển đến tột độ. Tài năng quan trọng cho xã hội hiện đại đến mức
số lượng và chất lượng người tài được đào tạo là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh
giá hiệu quả giáo dục. Cho nên, hệ thống giáo dục, đặc biệt là đại học,
phải có biện pháp hữu hiệu để đào tạo nhiều người tài, hơn nữa xã hội phải
được tổ chức như thế nào để tài năng không tàn lụi sớm mà được khuyến khích
phát triển ngày càng cao. Thật ra đó là truyền thống đã có từ xưa ở nhiều
nước, chẳng qua trong thời đại kinh tế tri thức, nhu cầu về tài năng sáng
tạo càng bức bách hơn bao giờ hết cho nên truyền thống đó được tiếp tục nâng
lên và phát triển. Muốn giành ưu thế trong cạnh tranh, mỗi nước đều có biện
pháp và chính sách đặc biệt xây dựng đội ngũ lao động sáng tạo tài năng
trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hoá, nghệ thuật, kinh doanh,
quản lý. Thậm chí còn tìm mọi cách thu hút người tài từ các quôc gia khác.
Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy giáo dục càng công bằng, dân chủ,
số người được học càng đông, thì trong số đông đó càng dễ chọn được nhiều
người tài xuất sắc. Cho nên công bằng dân chủ trong giáo dục không những
không mâu thuẫn với việc chú trọng tài năng, mà còn là cơ sở để đào tạo được
nhiều nhân tài cho đất nước. Cả ba mục tiêu về dân trí, nhân lực và nhân tài
của giáo dục là thống nhất, không thể tách rời và càng không thể đối lập cái
nọ với cái kia.
6) Trong thời đại khoa
học, công nghệ tiến nhanh như ngày nay, không ai có thể thoả mãn với vốn
kiến thức đã có của mình. Mọi người đều cần học tập, học thường xuyên, học
suốt đời, cho nên giáo dục thường xuyên (ngoài học đường) phải không
ngừng mở rộng cả về phạm vi, quy mô, hình thức, đối tượng, và sử dụng những
phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhất: máy tính, Internet, đa truyền thông
không dây, để cho ai, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thể học được dễ
dàng và có hiệu quả. Đáng chú ý là ở nhiều nước chi phí của xã hội cho giáo
dục thường xuyên đã ngang bằng, thậm chí vượt cả chi phí cho giáo dục theo
trường lớp truyền thống.
Để thực hiện xã hội
học tập, thì ngay từ nhà trường phổ thông, phải giáo dục lòng ham mê
tri thức và rèn luyện thói quen tự học, tự đọc, tự tham khảo sách
báo, tư liệu,v.v.. Phải bớt đi những giờ giảng trên lớp, tăng giờ tự học
ở lớp dưới sự giám sát và giúp đỡ của thầy giáo (chứ không phải tăng bài
làm, bài học ở nhà, vì như thế con em các gia đình có văn hoá cao và có hoàn
cảnh lao động phù hợp sẽ được bố mẹ hướng dẫn, thậm chí làm hộ, còn con em
các gia đình mà bố mẹ phải đi làm đêm hoặc văn hoá thấp sẽ gặp khó khăn, tạo
ra bất công). Đồng thời tăng bài làm độc lập ở nhà dưới hình thức tự đọc,
làm dự án, khoá luận, v.v.. là những việc mà người lớn không thể hay khó làm
hộ.
7) Đặc điểm dễ thấy nhất
của giáo dục thế kỷ 21 là sử dụng rộng rãi Internet, công nghệ thông tin
trong mọi khâu giáo dục, từ nội dung cho đến phương pháp, tổ chức. Lý
do dễ hiểu là vì một mặt công nghệ thông tin đã len lỏi vào mọi hoạt động
kinh tế và đời sống trong xã hội hiện đại, khiến cho hiểu biết tối thiểu về
tin học trở nên cần thiết cho mọi người, và mặt khác, máy tính, Internet,
viễn thông, truyền thông không dây, đã trở thành những công cụ có thể hỗ
trợ đắc lực việc giảng dạy và học tập theo các yêu cầu nêu trên. Hiện nay
không phải ai cũng nhận thức được tầm quan trọng của các phương tiện kỹ
thuật này đối với giáo dục, cho nên đầu tư cho lĩnh vực này thường chưa đủ
mức tới hạn cần thiết và không đồng bộ để có thể phát huy đầy đủ tác dụng.
Hơn nữa lĩnh vực này lại tiến quá nhanh, nếu không nhìn xa trông rộng thì có
nguy cơ tốn kém nhiều mà vẫn luôn luôn bị lạc hậu.
8) Cuối cùng, muốn đem
lại những thay đổi lớn trong giáo dục thì trước hết phải thay đổi cách quản
lý giáo dục. Trong kinh tế tri thức, phát huy sáng kiến chủ động của mọi
người là điều kiện cần thiết để tăng hiệu quả của mọi tổ chức. Điều đó càng
đặc biêt đúng với các tổ chức giáo dục mà nhiệm vụ trực tiếp liên quan việc
đào tạo con người. Vì vậy, bản thân hệ thống tổ chức, quản lý giáo dục cần
phải được phi tập trung hoá, các cơ sở giáo dục, nhất là các đại học,
phải được trao quyền tự chủ rộng rãi, về nội dung chương trình, về tổ
chức, kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác. Hệ
thống đó cần được cải tổ thành mạng lưới, vận hành theo cơ chế mạng,
tận dụng các tri thức khoa học và phương tiện kỹ thuât về quản lý mạng, để
tăng hiệu quả quản lý, phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển của xã hội
hiện đại. Quản lý giáo dục cũng tức là quản lý các hoạt động làm nền tảng
phát triển trí tuệ, phát triển năng lực sáng tạo của xã hội, cho nên càng
cần thiết phải hiểu biết những đặc điểm của loại hoạt động này để quản lý
một cách thật sự thông minh, phát huy được trí tuệ của cả cộng đồng.
3. Chúng ta cần làm gì trong thập kỷ tới ?
Trên đây tôi đã phác hoạ,
theo hiểu biết của tôi, một số yêu cầu chính của giáo dục trong thế kỷ 21.
Vì phải tập trung thảo luận về quan niệm và xu thế, tôi chưa thể bàn kỹ về
cách thực hiện các quan niệm, tư tưởng đó trong chương trình, nội dung và
phương pháp giảng dạy. Còn rất nhiều vấn đề cần bàn, nhưng tựu trung cũng
chỉ xoay quanh trục chính là làm sao bảo đảm xây dựng một xã hội năng động,
đầy sức sống, có sức cạnh tranh cao, dựa trên tài năng sáng tạo khoa học và
công nghệ, và hướng tới, chứ không đi ngược lại, văn hoá.
Soi lại tình hình VN,
chúng ta có thể và cần làm gì để hội nhập nhanh nhất và thuận lợi nhất vào
trào lưu chung đó ? Rõ ràng không thể yên trí với con đường mòn ta đã đi từ
hàng chục năm nay, mà phải thay đổi hẳn tư duy, chuyển sang con đường mới
bằng những bước đi thích hợp. Trước hết trong vài ba năm tới cần gấp rút
chấn hưng giáo dục, kiên quyết loại trừ những xu hướng tiêu cực, lạc hậu,
bệnh hoạn đang làm biến chất giáo dục. Phải giải quyết bằng được ba vấn đề
nhức nhối kinh niên, mà cũng là biểu hiện rõ nét nhất tính chất lạc hậu của
giáo dục: 1) thi cử và đánh giá; 2) dạy thêm, học thêm tràn lan, luyện thi
vô tội vạ; 3) biên soạn, xuất bản và sử dụng sách giáo khoa. Mục tiêu chấn
hưng là nhằm đưa giáo dục trở lại quỹ đạo lành mạnh đúng đắn, tăng hiệu quả
giáo dục, nói đúng hơn là khắc phục lãng phí để sử dụng tốt hơn các nguồn
lực phát triển giáo dục, hướng nhà trường nhích dần đến yêu cầu hội nhập
quốc tế và xu thế kinh tế tri thức, chuẩn bị điều kiện tiến lên cải cách
toàn diện, mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Cải cách là việc lớn, cần phải có kế
hoạch nghiên cứu chu đáo, chuẩn bị tỉ mỉ và phải được thực hiện mạnh mẽ,
kiên quyết nhưng không vội vã. Đặc biệt quan trọng là sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Nhà Nước và sự hưởng ứng, tham gia của toàn xã hội.
Xưa nay trí tuệ VN đã qua
nhiều thử thách lớn trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, và đã chiến
thắng vẻ vang nhiều kẻ địch hùng mạnh. Tuy nhiên tiềm năng trí tuệ ấy chưa
được đánh thức trong xây dựng hoà bình. Hãy thông qua cải cách giáo dục đánh
thức cái tiềm năng ấy, đó là trách nhiêm lịch sử nặng nề của thế hệ chúng ta
khi bước vào thế kỷ 21.
Tài liệu tham khảo
Xu thế cải cách giáo dục
trong thế kỷ 21
(trích tài liệu:
Education in Japan 2000, của Bộ Giáo dục, khoa học, thể thao và văn hoá
Nhật bản)
... Trong thế kỷ 21 sắp
tới, để phát triển Nhật bản thành một nước có sức sống mạnh mẽ và xây dựng
một quốc gia dựa trên nền tảng sức sáng tạo khoa học và công nghệ và một xã
hội định hướng văn hoá, vai trò của giáo dục cực kỳ quan trọng, đó là nền
tảng của mọi hệ thống xã hội. Trách nhiêm chúng ta là phải thường xuyên đưa
ra các biện pháp cải cách hệ thống giáo dục.
Tháng giêng năm 1997, Bộ
Giáo Giáo dục, khoa học, thể thao và văn hoá (GDKHTTVH) đã dự thảo " Chương
trình Cải cách Giáo dục" nêu ra những điểm chính và kế hoạch cải cách giáo
dục. Sau đó, tuy vẫn tôn trọng các bước thực hiện đang tiến hành, dự thảo đã
được tu chỉnh hai lần, vào tháng 8 năm 1997 và tháng 4 năm 1998. Bộ GDKHTTVH
đã tiến hành cải cách giáo dục với 4 điểm chính sau đây trong chương
trình ấy:
(1) Tăng cường giáo dục
xúc cảm (emotional education), rèn luyện nhân cách, nuôi dưỡng ý thức chân,
thiện, mỹ, tinh thần nhân ái, lòng yêu đời và mong muốn cống hiến, bảo đảm
mở rộng các con đường cho lớp trẻ trưởng thành.
(2) Thực hiện một hệ
thống giáo dục học đường giúp trẻ phát triển cá tính, mở cho thanh thiếu
niên nhiều khả năng chọn lựa khác nhau, thanh toán chủ nghĩa bình quân đã
tăng lên quá mức từ sau chiến tranh.
(3) Cải tiến tổ chức
trường học theo hướng tôn trọng quyền tự chủ của nhà trường, mở rộng phi tập
trung hoá quản lý giáo dục, thực hiện nhà trường tự quản.
(4) Đẩy mạnh cải cách đại
học và các hoạt động nghiên cứu khoa học, theo hướng nâng cao uy tín quốc
tế, giữ vững khả năng cạnh tranh quốc tế và xây dựng một xã hội thật sự năng
động, đầy sinh lực.
Đồng thời, đi đôi với hệ
thống giáo dục học đường, phát triển giáo dục ngoài học đường (giáo dục xã
hội, hay giáo dục thường xuyên), tạo cơ hội cho mọi người học tập suốt đời.