Từ nhiều năm nay, hầu như kỳ họp nào của Quốc
hội cũng sôi nổi khi bàn đến giáo dục. Nhưng rồi
vẫn không thấy có chuyển biến gì thật sự đáng
kể, đến kỳ họp sau lại cũng trở lại quanh quẩn
bấy nhiêu vấn đề. Người dân cảm thấy hết kiên
nhẫn và mong muốn có những giải pháp quyết liệt,
mạnh mẽ để cho giáo dục xứng đáng là quốc sách
hàng đầu.
Tôi không phủ nhận những cố gắng lớn và một số
thành tích nhất định của ngành giáo dục như đã
nêu trong báo cáo giải trình trước Quôc hội. Tuy
nhiên, cái chính là chất lượng sự học thì từ báo
cáo đó cũng như từ các ý kiến của nhiều đại biểu
Quôc hội tóat lên một điều không thể chối cãi:
tiến bộ quá chậm, nếu không muốn nói là giẫm
chân tại chỗ và thực chất đã tụt hậu xa hơn nữa
so với thế giới. Chúng ta đã làm một việc tốt là
công khai một số thông tin, mặc dù những thông
tin ấy có thể gây sốc trong xã hội, như: kết quả
điểm thi tồi tệ trong kỳ tuyển sinh đại học và
cao đẳng hai năm 2002-2003, tiếp theo là tỉ lệ
đỗ tốt nghiệp phổ thông trên 92% mà ai cũng biết
là giả tạo. Đó là bước đi dũng cảm đáng hoan
nghênh, và nếu Bộ GD và ĐT cứ tiếp tục cách làm
này thì dần dần sẽ rõ vướng mắc chính ở đâu và
sẽ huy động được toàn xã hội tích cực giải quyết
các vướng mắc đó, thay vì cứ ngoảnh mặt trước
thực trạng giáo dục hiện nay để rồi cứ sa lầy
mãi.
Mà thực trạng ấy, theo tôi, thật sự là nguy
kịch. Tại sao ? Với cách nhìn thiển cận, dù giáo
dục có xuống cấp tệ hại hơn nữa cũng chẳng chết
ai: hơn một thập kỷ qua, giáo dục của ta đã tụt
hậu mà đời sống vẫn lên, kinh tế vẫn tăng trưởng
đều đều, có sao đâu. Nhưng nếu nhìn xa hơn vào
xu thế chứ không chỉ hiện trạng, sẽ thấy
rằng trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri
thức, chỉ cần giáo dục tụt hậu thêm một thập kỷ
nữa đủ đưa đất nước đến bờ vực lụn bại. Việc đó
cũng chắc chắn như ngày mai mặt trời sẽ mọc. Vì
vậy, phát ra tín hiệu SOS lúc này không phải quá
sớm.
Điều đáng lo nhất là trong xã hội ta còn giữ
nhiều quan niệm lạc hậu về giáo dục, cho nên ta
không ý thức đầy đủ sự nghiêm trọng của tình
hình, có khi còn chủ quan, đánh giá tình hình
sai lệch. Chẳng hạn, cách đây ít lâu có một bài
báo Đức dựa trên kết quả khảo sát một số lớp
tiểu học ở Hà Nội và Munich đưa ra kết luận rằng
trẻ em VN chăm chỉ, có kỷ luật, ngoan hơn trẻ em
Đức, tuy trẻ em Đức có vẻ thông minh hơn. Nhiều
người vui mừng, tưởng thế là giáo dục của ta tốt
hơn Đức, mà không hề băn khoăn với cách giáo dục
này liệu mươi năm nữa, với trí tuệ thua kém,
thanh niên ta làm sao đua tranh nổi với thiên
hạ ? Năm nay, học sinh VN lại giành thành tích
xuất sắc trong cuộc thi olimpic tiểu học các
nứơc Asean, dĩ nhiên đó cũng là vinh dự, nhưng
cũng nên tự hỏi tại sao Singapore là nước Asean
phát triển nhất lại không tham gia cuộc thi này
? Phải chăng vì họ nghĩ: tiểu học chưa phải là
cái tuổi cần dốc hết sức ra đua tranh với thiên
hạ, chạy maratông thì không dại gì mới một trăm
mét đầu đã mở hết tốc lực vươn lên trước, cho
nên họ dành sức cho những chặng đường sau.
Chẳng lạ gì đại học của họ đứng đầu khu vực, hơn
cả nhiều đại học lớn của úc.
Hiện tượng trẻ em ta phải học quá sức chịu đựng
của chúng mặc dù đã bị lên án nhiều nhưng vẫn
còn khá phổ biến ở các thành phố: báo Tuổi Trẻ
đăng tin phụ huynh học sinh lớp 5 một trường
tiểu học nổi tiếng ở Thủ đô kêu van con mình
phải học cả sáng và chiều mà đến tối về còn phải
làm bài có hôm đến 11giờ rưỡi khuya mới xong,
thứ bảy chủ nhật chẳng được chơi vì thầy ra quá
nhiều bài tập. Không cẩn thận, trường học biến
thành nơi đày đoạ trẻ em, cả về sức khoẻ lẫn trí
tuệ, đó là mối hiểm hoạ có thực không thể coi
thường.
Tiểu học đã vậy, lên tới trung học thì học thêm,
tăng tiết lu bù. Đầu óc học sinh cứ nhồi nhét
như thế mà không vỡ tung đã là may, cho nên kết
quả thảm hại trong mấy kỳ thi vừa qua không có
gì lạ. Tại sao ta cứ nhìn các huy chương vàng,
huy chương bạc trong các cuộc thi olimpic quốc
tế mà quên đi trình độ thực tế của hàng triệu
học sinh phổ thông ? Kiến thức đã kém, mà đạo
đức, nhân cách thì hàng nghìn mánh khoé gian lận
trong thi cử khiến nhiều người lo lắng cho sự
tụt dốc tinh thần của xã hội tương lai.
Vậy mà tiểu học và trung học xem ra vẫn còn khá
hơn đại học là nơi mà nhiều người cho là đang
“học đại”. Tuy mấy năm gần đây trường sở có
khang trang hơn, nhưng nói chung đại học vẫn
đang trong tình trạng báo động đỏ. Sau khi đã
quá mệt mỏi ở trường phổ thông, đến khi thi được
vào đại học nhiều sinh viên không còn sức tiếp
tục cố gắng, sinh ra tâm lý học cầm chừng. Đã
thế cách dạy ở đại học chẳng khác phổ thông là
mấy, nhiều nơi sinh viên vẫn tiếp tục cách học
vẹt như ở phổ thông. Lên đến cao học và tiến sĩ
càng đáng lo hơn. Nhiều môn học phải hạ thấp yêu
cầu vì trình độ người học (và cả trình độ thầy),
còn luận án thì không ít trường hợp do thầy làm
hộ hoặc bỏ tiền đi thuê làm. Thêm vào đó, chế độ
công nhận chức danh GS, PGS đặt ra những điều
kiện không phù hợp cho nên càng khuyến khích các
xu hướng không lành mạnh trong việc đào tạo thạc
sĩ và tiến sĩ. Vì vậy mới có sự ngược đời: về số
lượng thạc sĩ, tiến sĩ, GS, PGS thì VN đứng cao
nhất trong khu vực nhưng đại học VN được xếp gần
cuối bảng, không chỉ thua kém về nhiều mặt mà
còn thua kém về trình độ GS, PGS và các bằng
cấp đào tạo ra. Ngay cả các đại học Thái Lan
chẳng tiếng tăm gì cũng quảng cáo thu hút du học
sinh VN, đủ biết đại học của ta được đánh giá
như thế nào trên quôc tế. Trong lúc đó báo chí
vẫn thỉnh thoảng đăng những phóng sự về chợ luận
văn hoạt động ngay cạnh nách một số đại học, về
những "học giả" chẳng có trình độ gì nhưng sống
rất đàng hoàng bằng nghề viết thuê luận văn, về
nạn ăn cắp thành quả nghiên cứu của người khác
đang lan tràn, v.v.. Lạ nhất là có những chuyên
ngành sản xuất kỷ lục nhiều văn bằng thạc sĩ,
tiến sĩ mà có chuyên gia Việt kiều trong ngành
đánh giá là những hàng nội hoá kém phẩm chất chỉ
có thể tiêu thụ trong nội địa, chứ mang ra nước
ngoài chỉ là những tấm giấy lộn, lại trở thành
những ngành bội thu GS, PGS, và cung cấp cho
lĩnh vực quản lý nhiều quan chức nhất.
Cách đây ít lâu một số người tự cho là yêu nước
và hiểu biết hơn ai hết đã phản ứng gay gắt đối
với những bài báo mô tả bi hài kịch trong việc
đào tạo tiến sĩ của ta. Cũng như trước đây họ
từng lên án thống kê đánh lừa (mặc dù chẳng có
hiểu biết gì về thống kê) khi thấy công bố tỉ
lệ áp đảo thí sinh đạt dưới trung bình cả ba môn
thi tuyển đại học năm 2002, bây giờ họ giẫy nẩy
khi nghe nói có thể đến 1/3 số GS, PGS của ta
dưới các chuẩn mực quốc tế. Họ lớn tiếng phê
phán những người đưa ra con số "động trời" đó
là những kẻ vô trách nhiệm, những nhà khoa học
kém đầu óc khoa học, còn duy ý chí hơn cả các
nhà chính trị, v.v... Nguyên việc đó cũng đủ cho
thấy sự hiểu biết của một số vị trong giới đại
học chúng ta về chuẩn mực quốc tế nghèo nàn đến
mức nào. Vì không biết các chuẩn mực này nên kém
mà cứ tưởng mình giỏi, tụt hậu mà cứ tự cho mình
tiên tiến.
Để hình dung rõ hơn khả năng hội nhập của đại
học ta trong cộng đồng quốc tế, tôi chỉ xin nói
về ngành toán học mà tôi biết là chất lượng đào
tạo đại học và trên đại học, cũng như trình độ
đội ngũ GS, PGS so với quốc tế không kém hơn
những ngành khác. Theo chuẩn mực quôc tế trong
toán học, một GS ở tuổi 30-40 thường phải có ít
nhất khoảng 15-20 công trình khoa học công bố ở
các tạp chí quôc tế, còn PGS khoảng mười công
trình trở lên. Ai đã từng có bài đăng trên quốc
tế đều có thể tìm thấy danh sách đầy đủ các công
trình toán học của mình ở địa chỉ
www.ams.org/mathscinet trên Internet. Một lần
một nghiên cứu sinh VN ở nước ngoài tin cho tôi
biết đã thử truy cập vào địa chỉ đó để xem trình
độ GS, PGS của ta so với quôc tế như thế nào và
rất buồn nhận thấy tình hình chẳng khả quan chút
nào. Một số khá đông GS, PGS của ta không có đủ
số công trình theo chuẩn mực quốc tế, một số khá
lớn khác, vốn đã ít công trình mà từ mươi năm
nay sau khi đã được phong GS, PGS, hầu như
không có thêm công trình nào, trái hẳn ở các
nước GS ở tuổi 50-60 thường có đằng sau mình
40-50 công trình hay hơn nữa. Nhất là khoảng vài
chục năm lại đây, số lượng tạp chí, công trình
khoa học bùng nổ mạnh nên trước đây một nhà toán
học có được 2 công trình mỗi năm đã được coi là
vào loại xuất săc, nhưng bây giờ đó chỉ là mức
bình thường. Đành rằng đối với một cá nhân cụ
thể thì số lượng công trình chưa phải là chỗ dựa
duy nhất để đánh giá trình độ và bao giờ cũng có
ngoại lệ, song tỉ lệ ngoại lệ chỉ dưới 5%, còn
đối với một tập thể, một cộng đồng thì nói chung
đó là con số phản ảnh tương đối đúng trình độ
trung bình của cộng đồng. It ra đó là quan niệm
chung của giới khoa học hiện nay. Cứ theo đó mà
suy thì dễ dàng tính được riêng trong ngành
toán đánh giá 1/3 số GS, PGS dưới chuẩn mực quốc
tế cũng đã quá lạc quan. Còn những ngành khoa
học tự nhiên khác, hay kinh tế, thì tình hình có
lẽ còn khó khăn hơn. Thế mà ngành toán có vị trí
đáng nể trong khu vực. Cái nghịch lý này có vẻ
ngược chiều với cái nghich lý đã nêu ở trên
(nhiều tiến sĩ, giáo sư, mà đại học lại kém),
nhưng có lẽ vẫn cùng một nguyên nhân. Đó là vì
ta có các chuẩn mực riêng để đánh giá trình độ
khoa học, và chưa có chính sách đúng đắn sử dụng
và bồi dưỡng nhân tài, nên nếu so tuổi đời với
số lượng công trình thì sự yếu kém của đội ngũ
GS, PGS của ta càng bộc lộ rõ. Trong khi đó, trớ
trêu thay, ta lại có không ít những người trẻ,
thừa chuẩn mực quốc tế, nhưng phải phấn đấu trầy
trật lắm may ra mới được công nhận, nên một số
họ bỏ ra nước ngoài làm việc, hoặc chuyển làm
nghề khác, hoặc nản chí rồi dần dần tài năng
cũng tàn lụi. Đó là một thực tế, dù có phũ phàng
nhưng cần nhìn thẳng vào đó thì mới mong sửa
được.
Vừa qua chất lượng phổ thông được nhiều người
quan tâm vì nó đụng chạm đến mọi gia đình và ai
cũng có thể nhận thấy rõ. Song chất lượng phổ
thông, và hơn nữa chất lượng cả đội ngũ lao
động, được quyết định một phần khá lớn bởi chất
lượng đại học (bao gồm "trên" đại học). Do đó
cũng có cơ sở để nói rằng so với các chuẩn mực
quốc tế và yêu cầu hội nhập của đất nước, nếu
phổ thông đáng lo một thì đại học đáng lo mười.
Cách phát triển đại học của ta lại theo một quan
niệm quá cũ nên rất cứng nhắc, đã nghèo lại làm
sang, do đó không đáp ứng nhu cầu thực tế, một
mặt hạn chế quy mô một cách đồng đều, máy móc,
mặt khác vì dàn đều nên không đủ sức xây dựng
những đại học tầm cỡ có khả năng cạnh tranh chất
lượng với các nước trong khu vực.
Chẳng lẽ bấy nhiêu việc chưa đủ nói lên tình
hình nguy kịch của nền học trên đất nước nghìn
năm văn hiến này hay sao ? Chẳng lẽ chúng ta
điếc không sợ súng hay chúng ta giả điếc để khỏi
sợ súng ? Với một nền học như thế, thì làm sao
tránh khỏi thua thiệt khi hội nhập ?
Song, thay lời kết, mặc dù đã vẽ ra một bức
tranh nhiều phần ảm đạm, tôi vẫn nghĩ rằng có lý
do để hy vọng và tin tưởng. Tôi nhớ có nhà lãnh
đạo đất nước vào thời kỳ khó khăn trước đây đã
từng khẳng định: dân tộc này đã quyết thì làm
được. Mong rằng ta sẽ sớm quyết để các thế hệ
sau đỡ tủi.