Vừa qua môt số chúng tôi
(1)
hoạt động trong các lĩnh vực giáo
dục, văn hoá, khoa học trong nước
hoặc ở nước ngoài, đã trình lên TƯ
Đảng và CP một bản kiến nghị về chấn
hưng, cải cách, hiện đại hoá giáo
dục. Bản kiến nghị ấy là kết quả
thảo luận qua 5 buổi xêmina nghiêm
túc trong 3 tháng 3-4-5, nhưng thật
ra là tổng hợp những điều đã trăn
trở, suy nghĩ, nghiền ngẫm nhiều năm
về giải pháp cho những vấn nạn của
nền học nước nhà đứng trước các yêu
cầu bức thiết của công cuộc hội nhập
và phát triển.
Theo cảm nhận của chúng tôi, ngôi
nhà giáo dục của ta hiện đã quá cũ,
chật chội, qua nhiều lần sửa chữa
cơi nới vẫn bất cập trước yêu cầu
cuộc sống, càng sửa chữa càng tốn
kém mà vẫn lạc hậu xa so với thiên
hạ. Đã đến lúc cần cương quyết xây
dựng lại ngôi nhà ấy từ móng, thì
mới có thể hội nhập thành công và
tồn tại trong thế giới ngày nay.
Điều đó có nghĩa không phải chỉ cải
cách chương trình như hiện nay đang
làm mà trước hết cần duyệt lại tận
gốc quan niệm, tư duy cơ bản về mục
tiêu giáo dục, từ bỏ những gì không
thích hợp với thời đại mới và có thể
cản trở công cuộc hiện đại hoá và
phát triển đất nước, trên cơ sở đó
xem xét lại nội dung, chương trình,
phương pháp, tổ chức và quản lý cho
phù hợp. Đó sẽ là một cuộc cải cách
sâu rộng, cũng có thể gọi là một
cuộc cách mạng, tuy phải khẩn trương
nhưng không thể vội vã, phải kiên
quyết nhưng thận trọng, để tránh
những xáo trộn căng thẳng không cần
thiết. Muốn thế, cần xuất phát từ
một quan niệm bao quát về các phương
hướng chủ đạo của nền giáo dục hiện
đại để thấy rõ con đường dài ta phải
đi, trên cơ sở đó nghiên cứu một kế
hoạch tổng thể cải cách toàn bộ hệ
thống theo hướng hiện đại hoá. Việc
nghiên cứu này phải nghiêm túc, đòi
hỏi ít nhất vài ba năm, nhưng trong
thời gian chuẩn bị kế hoạch đó, cần
giải quyết dứt điểm một số vấn đề
cấp bách để trả lại cho giáo dục môi
trường hoạt động bình thường, tạo
điều kiện thuận lợi chuyển dần sang
cải cách. Trong bản kiến nghị chúng
tôi có nêu ra 3 vấn đề cấp bách cho
giáo dục phổ thông: thi cử, dạy thêm
học thêm tràn lan, sách giáo khoa,
và 7 vấn đề cho giáo dục đại học:
thi cử, chỉnh đốn việc đào tạo thạc
sĩ và tiến sĩ, chấn chỉnh công tác
chức danh GS, PGS, cải thiện chính
sách sử dụng giảng viên đại học, đổi
mới việc đào tạo giáo viên, xây dựng
một đại học mới làm hoa tiêu, và
tăng đầu tư thích đáng cho đại học,
với ý thức rằng hiện nay đại học ta
tụt hậu so với khu vực còn xa hơn
phổ thông.
Sau đây tôi xin phát biểu thêm vài
suy nghĩ về một số vấn đề cơ bản.
1.
Nên nhận thức như thế nào đối với
các xu hướng thương mại hoá
giáo dục ?
Chỗ này có nhiều sự hiểu lầm, nhất
là từ khi có các trường tư và dân
lập. Có người cho rằng ngày nay cả
thế giới đều đã coi giáo dục là một
hàng hoá thì ta cũng không nên cấm
thương mại hoá giáo dục. Theo tôi,
điều đó không đúng, chỉ có một số ý
kiến chứ không phải cả thế giới, coi
giáo dục là hàng hoá và chủ yếu để
biện minh việc rao bán giáo dục của
họ cho các nước kém phát triển. Ở
Mỹ, châu Âu hay Nhật bản, các đại
học tư đều là những tổ chức phi lợi
nhuận, nghĩa là lợi nhuận chỉ cho
phép trong một giới hạn nhất định và
trong giới hạn đó phải được dùng để
phát triển đại học, chứ không phải
để làm giàu cho một số cá nhân nào.
Trong điều kiện của ta hoàn toàn
chưa nên đặt vấn đề xem giáo dục là
hàng hoá, mà cần phải lên án việc
thương mại hoá giáo dục. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là quay về
nền giáo dục bao cấp quan liêu,
tuyệt đối không chấp nhận những hình
thức hợp tác quốc tế mang tính chất
it nhiều thương mại, hay không chấp
nhận cho trường tư được có lợi nhuận
trong một phạm vi nhất định. Vì
chúng ta đang cần, nên phải chấp
nhận, nhưng không vì thế mà nâng lên
thành lý luận, xem đó là quy luật
tất yếu. Ngay trên diễn đàn quốc tế
về giáo dục VN vừa qua đại diện
UNESCO vẫn khẳng định UNESCO xem
giáo dục đại học là một dịch vụ
công, một public good.
(2)
Còn kinh nghiệm của ta là hầu hết
những căn bệnh tiêu cực của giáo dục
mà xã hội đang rất bất bình đều có
nguyên nhân sâu xa là sự chi phối
nặng nề của việc chạy theo đồng
tiền, đôi khi rất trắng trợn. Vì
sao trong giáo dục đầy rẫy những sản
phẩm dỏm, giả, từ cấp cơ sở cho đến
tiến sĩ, giáo sư, và gần đây cả viện
sĩ, không một thứ gì không mua được,
không bán được, không một thứ gì
không làm ẩu được ? Một phần vì cái
bệnh bằng cấp, hư danh, chạy theo
các loại mác, không phải chỉ phổ
biến trong đám dân thường mà thật ra
nặng nhất và kém gương mẫu là từ một
số không ít trí thức cao cấp. Nhưng
nguyên nhân chủ yếu theo tôi là do
chính quyền chưa bao giờ nghiêm
đối với tệ nạn này. Từ cả chuc năm
nay đã nói đến việc chống bằng giả,
và cơ quan công an phải đi đầu trong
việc này, thế nhưng theo tin trên
báo gần đây thì chính Bộ CA có chủ
trương không chỉ làm lơ cho những
cán bộ chiến sĩ trong ngành mình đã
sử dụng bằng giả mà còn công khai
tạo cơ hội cho họ thi lại để hợp
pháp hoá. Thế thì còn ai tin được
những tấm bằng thật đã giành được
bằng công sức học tập nghiêm chỉnh
? Điều này rất nguy hại, vì khi có
tiền là có danh, có bằng, rồi có
quyền nữa, thì con đường dẫn tới
băng hoại không còn xa. Nhiều người
đã gióng tiếng chuông báo động,
thiết tưởng không phải là quá sớm.
2.
Điểm yếu nhất của chất lượng giáo
dục là gì ?
Dĩ nhiên đó là sản phẩm của giáo dục
còn quá bất cập đối với yêu cầu công
cuộc xây dựng kinh tế xã hội. Con
người được đào tạo ra không chỉ yếu
kiến thức, kém thực hành, mà phần
khá đông còn kém bản lĩnh, thiếu
sáng kiến chủ động, ít chịu khó suy
nghĩ độc lập, thích làm theo, bắt
chước, hơn là sáng tạo. Nghiêm trọng
hơn nữa, thói gian dối trong nhà
trường thả sức phát triển, dẫn đến
sự ra đời cả một công nghiệp hỗ trợ
học đường kỳ quái bằng sản xuất
phao, làm thuê luận văn, thi thuê,
v.v..., nghĩa là giúp cho một số
người học giả mà vẫn có bằng thật.
Đã có câu chuyện đăng trên báo về
một bà giáo sư người nước ngoài năm
1975 đến VN có ấn tượng hết sức tốt
đẹp về một dân tộc có giáo dục, thế
mà 27 năm sau trở lại, có dịp vào
thăm một lớp học đang thi, bà ấy kể
lại chưa bao giờ trong đời được
chứng kiến nhiều sự gian trá trong
một không gian hẹp và một thời gian
ngắn như vậy. Bây giờ nhiều học sinh
không biết xấu hổ về chuyện quay
cóp, thầy giáo cũng không it người
thản nhiên chấp nhận việc ấy. Toàn
cầu hoá đưa đến cạnh tranh quyết
liệt, nhưng luật chơi trong cạnh
tranh này đòi hỏi không được lừa
dối, không được gian, và kẻ thắng
bao giờ cũng là người có nhiều ý
tưởng mới, nhiều sáng tạo. Cho nên
hai đức tính chủ yếu mà nhà trường,
hay đúng hơn, cả xã hội ta, rất
thiếu sót trong việc giáo dục lớp
trẻ là tính trung thực và đầu óc
sáng tạo. Một dân tộc thiếu hai
đức tính ấy sẽ không thể nào cạnh
tranh nổi với ai trong thời đại này.
3. Yếu tố gì quyết định nhất đối với
chất lượng giáo dục
?
Hiển nhiên điều kiện vật chất, tổ
chức quản lý, chương trình, sách
giáo khoa, ... cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây
trên quốc tế đã phát hiện một điều
bất ngờ: dù là trong thời kỹ thuật
số, yếu tố quan trọng nhất quyết
định chất lượng giáo dục vẫn là
người thầy. Có thầy giỏi thì rồi
sẽ có phương pháp hay, do đó sẽ có
trò giỏi, còn thầy đã kém thì khó
lấy gì bù lấp nổi. Thầy giỏi ở đây
là thầy có tầm và có tâm, và có điều
kiện thi thố cả tâm và tầm của mình.
Vì vậy bí quyết nâng cao chất lượng
giáo dục có thể nói ngắn gọn là:
chăm lo cho có nhiều thầy giỏi và
tạo mọi điều kiện cho thầy thi thố
hết tài năng và tâm huyết của mình.
Hiện nay, chính vì không nhận ra
điểm cơ bản này nên ta cứ loay hoay
nhiều giải pháp đâu đâu mà ít quan
tâm vấn đề bồi dưỡng và sử dụng đội
ngũ thầy giáo. Đã thiếu thầy giỏi,
mà phần lớn thầy giỏi lại bị chính
sách sử dụng bất cập làm cho mòn mỏi
dần cả tâm lẫn tầm. Thầy không ra
thầy, không có lời phê nào nặng
hơn đối với một nhà giáo, một nhà
trường, hay cả một nền giáo dục, thế
nhưng, tiếc thay, chính đó là một
nét khá phổ biến của thực trạng giáo
dục hiện nay.
Nhưng vì sao thầy không ra thầy ? Có
nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên
nhân it được nói đến vì lý do tế nhị
tuy rất quan trọng là: lương
không ra lương. Đương nhiên mọi
ngành đều như vậy, song đặc biệt đối
với giáo dục, lương không ra lương
thì tất yếu dẫn đến giáo dục không
ra giáo dục, giáo dục mà phản giáo
dục. Cho nên để nâng cao chất lựơng
giáo dục thì cấp bách là phải sửa
chế độ lương, không phải sửa như đề
án cải cách lương đã được thông qua
và nay rõ ràng sắp phá sản, mà cần
làm sao đưa mọi khoản thu nhập thực
tế từ công quỹ vào lương và điều
chỉnh sự phân phối sao cho công bằng
để tiền lương “thực tế” (lương+mọi
phụ cấp) tạo điều kiện cho thầy giáo
tập trung tâm sức vào nhiệm vụ chính
mà không phải lo toan dạy thêm,
luyện thi, viết sách nhảm nhí để
kiếm thêm thu nhập. Cái điều phi
logic hiển nhiên mà chúng ta đều
biết quá rõ là: ai cũng kêu lương
thấp nhưng ai cũng sống đường hoàng.
Mọi sự bắt đầu chính là ở sự giả dối
đó, nó cũng là một nguyên nhân quan
trọng đẩy cả xã hội đến những sự giả
dối khác, đặc biệt là tham nhũng
tràn lan. Nhiều người nói rằng khả
năng tài chính không cho phép Nhà
nước trả lương đàng hoàng, vậy thì
cái khoản bù thêm lương để sống đàng
hoàng đó ở trên trời rơi xuống hay
sao ?
4.
Đổi mới phương pháp giảng dạy như
thế nào ?
Ta phê phán lối dạy độc thoại, thầy
giảng trò ghi, đề cao nguyên tắc
giảng dạy lấy hoc sinh làm trung
tâm, phát huy tính chủ động tích cực
của học sinh, v.v.. Rất đúng, nhưng
xin thưa: thi cử như thế này, sách
giáo khoa như thế này, chương trình
như thế này, và giáo viên phải dạy
thêm lu bù như thế này, thì chỉ có
phép thần thông biến hoá mới thực
hiện được nghiêm chỉnh một phương
pháp dạy nào khác với cách dạy phổ
biến hiện nay ở nước ta, là dạy
không phải nhằm khai sáng trí tuệ mà
chỉ cốt nhồi nhét vào đầu học sinh
tất cả những gì có trong chương
trình, trong sách giáo khoa, dù chỉ
là những kiến thức chết, lạc hậu với
cuộc sống 30-40 năm. Vì vậy muốn đổi
mới phương pháp trước hết phải giải
quyết 3 vấn nạn: thi cử, dạy thêm
học thêm tràn lan, sách giáo khoa.
Điều quan trọng nữa là phương pháp
sư phạm khi lên lớp đã được nghiên
cứu không phải hàng trăm năm mà hàng
nghìn năm nay rồi, cho nên những lời
khuyên nói trên thật ra chẳng có gì
mới cả. Cái mới cần thực hiện hơn
nhưng chúng ta ít chú ý là bớt giờ
lên lớp nghe giảng, tăng giờ tự học,
tham khảo tài liệu, viết tiểu luận,
thảo luận, thuyết trình, sinh hoạt
xêmina, làm việc nhóm, v.v., và
trong chương trình học cần bỏ hoặc
thay đổi hẳn nội dung những môn có
tính chất kinh kệ, thay vào đó những
môn rèn luyện tư duy và đầu óc phê
phán. Hiện nay trên thế giới đều làm
như vậy, chỉ có ta còn làm khác,
dành 15-20% thời lượng cho những môn
này mà kết quả trái ngược hẳn mong
muốn của chúng ta.
Thi cử đến nay như thế đã quá đủ
rồi, xin hãy dừng lại cách thi cử cổ
lỗ này, đừng tìm cách cải tiến 3
chung 2 chung gì nữa, mà nên áp dụng
sớm cách thi cử và đánh giá văn minh
của các nước: thi, kiểm tra nghiêm
túc từng học kỳ, từng môn, cuối cấp
đạt yêu cầu thì cho tôt nghiệp; thay
kỳ thi tuyển sinh đại học bằng một
kỳ sát hạch nhẹ để loại bớt những
người quá rõ chưa đủ sức học đại
học, rồi giao quyền tuyển chọn cụ
thể cho từng đại học. Như thế không
chỉ ảnh hưởng tốt đến cung cách dạy
và học, giảm hẳn áp lực thi cử và
những hệ lụy tiêu cực của nó mà còn
tiết kiệm cho Nhà nước và xã hội
hàng chục nghìn tỉ đồng mỗi năm để
làm nhiều việc cần kíp hơn.
Điều quan trọng là có cải cách thi
cử và đánh giá thì mới có điều kiện
xoá bỏ chuyện dạy thêm học thêm tràn
lan là một hiện tượng nhức nhối, nói
lên tính chất cực kỳ phản giáo dục,
đôi khi rất tàn nhẫn mà chỉ riêng VN
mới có. Để biện hộ, một số người nói
Hàn Quôc, Nhật bản cũng còn học
thêm, nhưng xin thưa: học thêm của
họ khác, chỉ lẻ tẻ và thường là học
những điều ngoài chương trình nhà
trường, mục đich chỉ để đua chen vào
một số rất ít đại học nổi tiếng, chứ
không ở đâu có kiểu tràn lan và chỉ
học lại kỹ chương trình chính khoá
như ở ta.
Điều nguy hại nhất là cách làm giáo
dục như ta hiện nay hết sức lãng
phí, làm cho chúng ta sa lầy vào
những hoạt động không chỉ tốn kém mà
còn có hại vì không cho phép chúng
ta còn sức đầu tư vào đại học, mà sự
lạc hậu của đại học so với thế giới
và khu vực còn nghiêm trọng hơn gấp
nhiều lần sự tụt hậu của giáo dục
phổ thông. Không kể những sự lãng
phí công quỹ mà nhiều báo như Tuổi
trẻ, An ninh thế giới đã từng nêu,
những sự lãng phí ấy dù to lớn vẫn
không không thấm gì so với những sự
lãng phí đáng sợ hơn: lãng phí công
sức của hàng vạn thầy giáo vì phải
dạy thêm lu bù, lãng phí tài năng và
tuổi trẻ quý giá của hàng triệu học
sinh vì phải hoang phí sức lực vào
những giờ học thêm, luyện thi vô bổ.
Sự tổn thất vô hình này mới thật
đáng kể nhất vì nó ảnh hưởng lớn đến
năng lực sáng tạo, sự thông minh và
tính năng động của toàn xã hội trong
thời đại mà ai cũng biết các đức
tính ấy cực kỳ quan trọng.
Vì thời gian không cho phép
tôi chỉ xin nêu vài điểm để thấy
rằng những bất cập, hay có thể nói
sai lầm, trong giáo dục chỉ phản ảnh
một thực trạng xã hội và không phải
chỉ là những khuyết điểm sai lầm về
điều hành, quản lý của riêng ngành
giáo dục (tuy phần trách nhiệm của
ngành không nhỏ), mà đó là những
sai lầm hệ thống, những sai lầm
thiết kế, cấu trúc, sai lầm từ quan
niệm, tư duy cơ bản cần phải sửa
chữa từ gốc. Và vì vậy, muốn giáo
dục có sự chuyển biến mạnh mẽ trước
hết cần có sự chuyển biến quan niệm,
tư duy và quyết tâm từ trên cao
nhất.
http://vietsciences.free.fr