Theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ đang chuẩn
bị một báo cáo đặc biệt về giáo dục. Đây là cơ
hội để chúng ta nhìn lại toàn diện và sâu sắc
những vấn đề lớn của ngành Giáo dục, những gì là
cái được chính, và cái tồn tại lớn nhất, vướng
mắc lớn nhất để tích cực giải quyết và tìm đường
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay của nền
học nước nhà. Toàn dân đang đặt niềm tin và hy
vọng vào bản báo cáo này để khởi động những
chuyển biến mạnh mẽ nhằm chấn hưng Giáo dục theo
yêu cầu cuộc sống, làm cho giáo dục thật sự là
đòn xeo đưa đất nước tiến lên. Với nhận thức đó
tôi xin góp thêm một số ý kiến về chất lượng
Giáo dục mà hiện nay đang rất cần một sự đánh
giá đúng đắn làm cơ sở cho mọi giải pháp.
I.
Từ cả chục năm nay, Trung ương đã có nhiều nghị
quyết chỉ rõ những bất cập, yếu kém lớn của Giáo
dục: chương trình và phương pháp dạy lạc hậu,
thi cử nặng nề, dạy thêm học thêm tràn lan, sách
giáo khoa chưa tốt, nhiều hiện tượng gian dối,
tiêu cực đang làm xói mòn uy tín và hiệu quả
giáo dục. Tuy Nhà nước và xã hội đã đầu tư không
ít cho Giáo dục, và bản thân ngành Giáo dục cũng
đã cố gắng hết sức, nhưng không kỳ họp nào của
Quốc hội không phản ảnh những bức xúc sâu sắc
của người dân về Giáo dục, mà bức xúc cứ lặp đi
lặp lại chủ yếu xung quanh mấy vấn đề vừa nêu.
Điều đó có nghĩa những yếu kém bất cập đã từng
được chỉ ra từ lâu vẫn chưa được khắc phục đáng
kể; thậm chí có mặt còn trở nên gay gắt và
nghiêm trọng hơn, biến thành những căn bệnh trầm
kha, những ung nhọt nguy hiểm khó lường.
Đứng trước thực trạng ấy chỉ có hai cách suy
nghĩ: hoặc là thừa nhận những bất cập yếu kém đó
không thể khắc phục được, sức ta không thể làm
gì hơn, dẫu bây giờ có nghiêm khắc phê phán và
hứa hẹn sửa chữa thì mười năm nữa cũng chẳng
thay đổi được nhiều, nhân dân nên gắng chịu và
nhớ rằng khi xã hội còn như thế này, khi tham
nhũng dối trá còn chi phối nặng nề cuộc sống của
chúng ta, thì giáo dục được thế này đã là may
mắn lắm, là thành tựu vĩ đại mà chúng ta phải tự
hào và vui mừng, thay vì lo lắng và đòi hỏi
không thực tế. Đó là cách suy nghĩ tiêu cực,
thiếu trách nhiệm, khó có thể chấp nhận, dù nó
cũng có cái lý của nó. Còn một cách suy nghĩ
khác, tích cực hơn, có trách nhiệm hơn, là: Nhà
nước, xã hội, nhân dân đã cố gắng đến vậy mà các
căn bệnh tàn phá Giáo dục vẫn chưa lui, thì ắt
có điều gì đây chưa ổn, mà chưa ổn từ
gốc, chứ không phải chủ yếu chỉ do điều hành
kém cỏi, không phải chủ yếu do sức ta, tiềm năng
ta thiếu, không phải chủ yếu do ta nghèo, do
người Việt ta thua kém các dân tộc khác, vậy
phải tìm cho ra cái gốc ấy mà chữa chạy mới có
hy vọng vực Giáo dục lên được; hơn nữa, dù Giáo
dục chỉ là một hệ thống con của hệ thống lớn là
xã hội, nhưng với tính độc lập tương đối của nó,
vẫn có khả năng nó tác động ngược lại xã hội và
với cố gắng và tài năng của lãnh đạo tác động ấy
cũng có thể có sức lay chuyển xã hội, làm cho xã
hội trong sạch và tốt đẹp dần lên. Tôi nghĩ bản
báo cáo cần toát lên cái tinh thần ấy. Tôi nhớ
năm 1999 khi sang thăm đại học Singapore, tôi đã
nghe kể lại: ông bộ trưởng Giáo dục Singapore
nói trong Quốc hội rằng nền Giáo dục Singapore
đang được đánh giá tốt, tuy nhiên thế giới đang
đổi thay nhanh chóng, Singapore cần phải cải
cách nền Giáo dục của mình theo hướng “thinking
schools, learning society” nếu muốn tiếp tục giữ
vững vị trí của mình trong thế kỷ 21. Và hiện
nay, khắp nơi trên thế giới đang sôi sục phong
trào chấn hưng Giáo dục, nếu ta cứ để Giáo dục
lay lắt thế này mà không thấy sự tụt hậu của nó
thì tương lai ảm đạm đang chờ chúng ta, thế hệ
này sẽ mang tội lớn đối với con cháu.
Người dân bức xúc, chứng tỏ Giáo dục chưa đáp
ứng tốt những nhu cầu thiết yếu của dân, hoạt
động Giáo dục đang có những vấn đề bất bình
thường. Sự lo lắng bức xúc ấy thật đáng khích lệ
cho giáo dục. Chỉ sợ người dân thờ ơ, chứ người
dân quan tâm thiết tha, thì dù có khó khăn gì
cũng có cách giải quyết, miễn là chúng ta biết
lắng nghe.
Cho nên tình hình dù phức tạp đến đâu cũng không
ngại mà đáng lo nhất chính là thái độ vô cảm,
thậm chí bực bội của một số quan chức trước
những bức xúc của dân, chẳng những không chịu
tìm hiểu có gì sai đến nỗi người dân phải lo
lắng đến vậy, mà cứ một mực tìm cách chứng minh
rằng mọi việc đều tốt đẹp, tuy có bất cập này
nọ, nhưng là những bất cập bình thường, nền giáo
dục nào, thời nào chẳng có, huống chi quy mô
phát triển bây giờ gấp trăm nghìn lần trước kia,
tránh sao được thiếu sót, tóm lại thành tựu mới
là chính, thậm chí một vài tiếng nói lạc lỏng
còn cho thành tựu rất vĩ đại. Đó cũng là thực
chất cách nhìn chi phối các bản dự thảo báo cáo
tôi đã được đọc. Từ bản dự thảo thứ 1 đến bản dự
thảo thứ 6, tuy có nhiều thay đổi chi tiết, câu
chữ, nhưng cơ bản vẫn một cách nhìn ấy. Nhiều
con số nêu trong dự thảo có thể đều chính xác,
song chưa nói đúng thực chất tình hình(1),
vẫn cho cảm giác chưa thật, còn tránh né nhiều
vấn đề cốt lõi, hoặc hời hợt khi nhận định các
mặt bất cập, cho nên chưa tạo được niềm tin.
Trong đó quan trọng nhất là cách đánh giá tình
hình thể hiện một cách nghĩ, một quan niệm, một
tư duy giáo dục còn rất cũ kỹ. Nếu tới đây tư
duy đó vẫn tiếp tục chi phối các hoạt dộng giáo
dục thì e rằng mọi cố gắng chấn hưng giáo dục
đều sẽ vô hiệu và tình hình rối ren, khủng hoảng
của Giáo dục còn sẽ kéo dài chưa biết đến bao
giờ.
II.
Trên cơ sở nhận xét tổng quát đó, bây giờ xin
góp ý kiến về một số vấn đề cụ thể.
1.
Trước hết, về căn cứ để đánh giá Giáo dục, quan
trọng nhất là so với yêu cầu phát triển của đất
nước, đặc biệt trong giai đoạn toàn cầu hóa, hội
nhập, và cạnh tranh quốc tế. Chỉ có như thế mới
thấy hết ta cần làm gì để từng bước thanh toán
khoảng cách giữa ta với thế giới. Không nên so
sánh với những ngày khó khăn trước đây, mà cũng
không nên căn cứ vào chiến lược Giáo dục
2001-2010, vì chiến lược ấy còn nhiều điểm cơ
bản chưa ổn và tuy đã được TT thông qua nhưng
chưa đưa ra Quốc hội phê chuẩn và qua thời gian
5 năm thực hiện đã tỏ ra không đáp ứng yêu cầu.
Về thành tựu Giáo dục, tôi nghĩ không nên nhấn
mạnh nhiều và kể lể dông dài để tự ru ngủ, vì ít
có người dân nào hài lòng với chất lượng Giáo
dục, mà bức xúc lo lắng nhiều hơn. Có lẽ đáng
nói nhất, đáng biểu dương nhất, là tinh thần
hiếu học của nhân dân và sự cố gắng kiên trì của
đội ngũ thầy giáo nhờ đó, mặc dù đường lối Giáo
dục bất cập, và quản lý có nhiều sai lầm thiếu
sót, GDPT tuy tụt hậu nhưng vẫn giữ được nền nếp
tối thiểu, không đến nỗi quá nhếch nhác như đại
học và trung cấp chuyên nghiệp. Nếu biết kịp
thời chấn chỉnh theo tư duy mới, để trở lại bình
thường và phát huy tiềm năng vốn có, thì tôi tin
GDPT có thể mau chóng khắc phục được các yếu kém
(mà phần lớn do tư duy và quản lý chỉ đạo lệch
lạc) để tiên lên kịp các nước trong khu vực.
2.
Bản dự thảo báo cáo nhận định rằng kiến thức, kỹ
năng của học sinh phổ thông hiện nay cao hơn các
thế hệ trước(2)
và chất lượng GDPT của ta không thua kém các
nước trong khu vực, còn chất lượng đào tạo học
sinh giỏi thì đạt trình độ cao trong khu vực.
Theo tôi, nhận định đó chứng tỏ một quan niệm
thô thiển về Giáo dục. Thật ra, số học sinh của
ta đi du học các nước là số chọn lọc, phần lớn
thuộc loại giỏi, nếu số đó theo kịp được chương
trình đào tạo của các nước thì có gì lạ; hơn
nữa, phần đông phải mất ít ra một năm (thường là
hai năm) để bổ sung kiến thức, và thường năm đầu
học tốt, các năm sau đuối dần, đó chính là hậu
quả việc học năng nề ở phổ thông (thậm chí từ
tiểu học). Còn kết quả các cuộc thi olympic hay
thi quốc tế khác cũng không chứng minh được chất
lượng GDPT, vì người ta không đầu tư cho việc
này nhiều như ta (không có nước nào có nhiều kỳ
thi học sinh giỏi như ta). Trong các cuộc thi đó
nhiều nước kém ta, Mỹ, Đức, Pháp cũng từng có
lúc đứng khá xa, nhưng ai dám bảo GDPT của ta
hơn họ. Còn thi tiểu học thì hoàn toàn vô nghĩa,
đã có lúc việc so sánh học sinh tiểu học Munich
và Hà Nội lẽ ra là một cơ hội suy ngẫm về sự
thua kém của ta thì lại được vui mừng đón nhận
như bằng chứng về sự ưu việt của nhà trường ta(3).
Nếu GDPT chỉ nhằm mục tiêu chuẩn bị đủ kiến thức
cho học sinh có thể theo được các lớp đại học
thì đâu cần đến 12 năm và đâu cần học nhiều thứ
như vậy cho khổ. Trước đây ở Miền Bắc nhiều học
sinh đã từng được đào tạo cấp tốc theo hệ thống
bổ túc công nông, chỉ học thêm vài ba năm sau
tiểu học mà cũng theo được các lớp đại học,
trong nước cũng như ở nước ngoài, cho nên việc
học sinh ta đi du học ở các nước không gặp khó
khăn đặc biệt về kiến thức không thể xem là bằng
chứng về trình độ của GDPT của ta được.
Vấn đề ở đây là nhiều người quan niệm nhà trường
chỉ cần chú ý số lượng kiến thức được nạp vào
đầu học sinh, chứ không cần quan tâm đến chất
lượng, tệ hơn, không cần biết trình độ phát
triển của tư duy, cái gọi là văn hóa chung, tức
là, như người ta thường nói, cái còn lại trong
đầu sau khi đã quên hết những kiến thức cụ thể
(cái đó tiếc thay không thể đánh giá qua các kỳ
thi). Chính do quan niệm lạc hậu đó mà chúng ta
chỉ chú trọng đánh giá bằng thi cử cổ lỗ và gắn
bó với kiểu thi đó đến nỗi không tài nào dứt ra
được.
Đó là nói GDPT. Còn ở ĐH thì từ quan niệm về đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ, cho đến việc tuyển chọn
GS, PGS, đánh giá năng lực, trình độ giảng viên
đại học, đánh giá chất lượng đại học, tất cả
cũng đều thể hiện tư duy bất cập, đến mức gọi ĐH
của ta là PT cấp 4, như có người đã ví, thật
cũng không quá đáng. Tệ hại nhất là từ cử nhân
đến ThS, TS, PGS, GS, VS nhan nhản sản phẩm dỏm,
không chỉ dỏm do chạy chọt, mua bán mà nguy hại
hơn, dỏm mà thật, vì đường đường xuất xưởng từ
quy trình đào tạo chính quy của ta.
Chính vì những quan niệm quá cũ kỹ về chất lượng
Giáo dục như vậy nên mới không thấy hết mặt tiêu
cực của các kỳ thi vừa quá nhiều, quá nặng nề,
tốn kém, mà có hại nhiều hơn lợi, chính vì những
quan niệm đó mới đẻ ra nghịch lý: trên chủ
trương lời nói thì chống việc dạy thêm học thêm
tràn lan, học vẹt, học tủ, học lệch, phê phán
tình trạng dạy và học để đi thi (kể cả ở các lớp
chuyên), nhưng trên thực tế hành động và chính
sách thì thật ra là dung túng, gián tiếp hay vô
tình khuyến khích tất cả các lệch lạc đó. Những
khối u dị dạng này, cọng với phương pháp dạy và
sách giáo khoa lạc hậu, đã vô hiệu hóa nhiều cố
gắng của giáo viên, học sinh, phụ huynh học
sinh, và làm triệt tiêu những ưu điểm, thành
tựu, lẽ ra là niềm tự hào của xã hội chúng ta.
3.
Về trí dục thì như thế, còn về giáo dục đạo đức,
nhân cách thì cũng không thể nói chúng ta đã
thành công và có thành tựu gì đáng kể. Trái lại
ở đây đã thể hiện một tình trạng xơ cứng tư duy
càng rõ nét hơn. Hai mươi năm nay tình hình thế
giới, tình hình trong nước, đã thay đổi biết
bao, cách nhìn thế giới, cuộc đời, cách sống,
cho đến cả lý tưởng xây dựng kinh tế xã hội đâu
còn như trong giai đoạn trước, hàng ngày luôn
nhắc đến quá độ lên CNXH, đấu tranh giai cấp, ai
thắng ai, chuyên chính vô sản, kế hoạch hóa tập
trung, v.v. Từ khi Đảng khởi xướng đổi mới, cả
xã hội đã chuyển mình, nhằm mục tiêu cụ thể công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
rồi bây giờ cuộc hội nhập quốc tế đang đặt ra
cho chúng ta biết bao thử thách, lẽ ra Giáo dục
phải đi trước một bước, chuẩn bị cho thanh thiếu
niên tự tin bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt
để dành cho dân tộc ta một chỗ đứng xứng đáng
trong thế giới đầy cạm bẫy rủi ro nhưng cũng
không ít cơ hội cho những dân tộc giàu tiềm năng
trí tuệ và biết phát huy mạnh mẽ tiềm năng ấy.
Tiếc thay, nhà trường của chúng ta không
những không đi trước mà phần nào, mặt nào đó,
còn chậm trễ, thậm chí đi ngược thời gian trong
sự chuyển mình vĩ đại đó của đất nước. Không
nói gì nhiều, tôi chỉ xin nêu hai việc: một là
cách dạy chính trị cổ lỗ, vô bổ, có tính chất
kinh kệ tôn giáo, chứ không phải nhằm phát triển
tư duy khoa học, mà lại chiếm nhiều thời gian
chỉ để cung cấp cho học sinh một cách nhìn xơ
cứng về thế giới, thay vì, như lý thuyết đề ra,
một vũ khí cải tạo, xây dựng xã hội. Hai là,
trong khi cuộc cạnh tranh và hội nhập ở thời đại
kinh tế tri thức đòi hỏi nhiều đức tính và năng
lực, trước hết là tính trung thực và năng lực
sáng tạo, hai cái mà xã hội ta đang thiếu nghiêm
trọng, thì, trong nhà trường, gian lận dưới mọi
hình thức, và thói lười biếng suy nghĩ, đầu óc
bắt chước, sao chép, học vẹt, nô lệ tư duy, phát
triển mạnh hơn bao giờ hết trong lịch sử giáo
dục của ta. Nói một đằng làm một nẻo, học tách
rời với hành, chuộng hình thức, hư danh, chạy
theo các loại nhãn mác rởm, không còn thói xấu
nào không bị lên án, thế nhưng thực tế thì khác,
và buồn thay, gương xấu nhan nhản không chỉ ở
chốn học đường, mà ngay trong giới cầm cân nẩy
mực về Giáo dục và khoa học(4).
4.
Phần đắt giá nhất và được chờ đợi nhiều nhất
trong báo cáo của Chính phủ lần này phải là phần
nói về yêu cầu đổi mới tư duy giáo dục.
Song, như trên đã nói, nhiều phần trong bản dự
thảo báo cáo thể hiện tư duy quá cũ, còn tư duy
mới như thế nào thì rất lúng túng, chưa rõ ràng,
thậm chí có thể nói chỉ mới trên ngôn từ, và đại
ngôn. Nào là phát triển con người VN với đầy đủ
bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, nào
là xây dựng nền Giáo dục của dân, do dân, vì
dân. Tất nhiên đó là những nguyên tắc chung rất
đúng, nhưng đó cũng là những điều vĩnh viễn
đúng, trước đây mấy chục năm đã vậy, sau này mãi
mãi cũng sẽ vậy. Đó là ngôi sao Bắc đẩu để khỏi
đi lạc đường trên đại dương mênh mông, nhưng cái
ta cần hơn vào lúc này là những ngọn đèn pha để
đưa ta đến bến, những nguyên tắc, quan niệm để
dắt dẫn chúng ta đến một nền Giáo dục phù hợp
yêu cầu cuộc sống hiện đại, xã hội hiện đại, thế
giới văn minh hiện đại. Dự thảo lại nói đổi mới
tư duy là xác định các vấn đề cụ thể của Giáo
dục trong nền kinh tế thị trường định hướng
xhcn. Nói như thế không đầy đủ, không đúng, dễ
gây ngộ nhận, khi đem ra thực hiện có thể gây
tai họa đẩy nền Giáo dục lún sâu thêm vào vũng
lầy thương mại hóa tiêu cực hiện đang gây sự bất
bình của nhân dân.
Theo quan niệm của chúng tôi, tư duy Giáo dục
mới thể hiện trong mười phương hướng hiện đại
hóa giáo dục đã trình bày trong bản Kiến nghị
chúng tôi đã gửi lên Trung ương và Chính phủ.
Sau cùng, về các nhiệm vụ cấp thiết cần tập
trung chỉ đạo thực hiện, cũng xin nhắc lại đề
nghị như đã nêu trong bản Kiến nghị này là:
1) Thành
lập một tổ chức bên cạnh Bộ Giáo dục hay Chính
phủ để nghiên cứu kế hoạch, lộ trình cụ thể hiện
đại hóa Giáo dục. Tổ chức này phải đủ năng lực
và cần làm việc trong vài ba năm để đề xuất kế
hoạch đó và đưa ra Quốc hội thảo luận và thông
qua trước khi thực hiện.
2) Trước
mắt, cần tập trung xử lý 10 vấn đề cấp bách như
đã trình bày trong Kiến nghị (3 vấn đề cho GDPT,
7 vấn đề cho ĐH).
(1)
Chẳng hạn, con số 33.000 người được đào
tạo đại học được kể là thành tựu. Nhưng
nếu nói rõ chất lượng trình độ đội ngũ
đó, nhất là tỉ lệ dỏm, giả, thì ý nghĩa
thành tựu đó khác hẳn, thậm chí có còn
đáng coi là thành tựu không ?
(2)
Nếu kể như vậy thì học sinh lớp 12 ngày
nay biết nhiều kiến thức vật lý hơn
Newton, vậy đó là thành tựu tuyệt vời
hay sao ?
(3)
Có một bài báo Đức so sánh và kết luận
trẻ em VN có kỷ luật, ngoan ngỏan, chăm
học hơn, còn trẻ em Đức có vẻ thông minh
hơn. Phải chăng như thế giáo dục của ta
tốt hơn giáo dục của Đức ? (xem Tia
Sáng, số thang 9, năm 2002, bài “Những
nghịch lý giáo duc” của Hoàng Tụy).
(4)
Rõ nhất là trong mây năm gần đây, VN đã
có mấy tá “viện sĩ”. Trong lúc nước ta
chưa có Viện Hàn Lâm theo đúng nghĩa
thường hiểu (tuy hai Viện KHTN và CN VN
và Viện KXH và NV VN được mang tên nước
ngòai là Academy !) thì rât nhiều tổ
chức ở nước ngoài (đôi khi cũng gọi là
academy, nhưng từ tiếng Anh này được
dùng theo nghĩa rất rộng), quảng cảo
chào mời danh hiệu thành viên của họ
(rồi được dịch ra tiếng Việt là VS) mà
hoàn toàn không đòi hỏi gì cao về thành
tích khoa học cả, chỉ cần trả hội phí,
hoặc một món tiền nào đó, hoặc có một
quan hệ hữu nghị nào đó. Chức danh của
phần đông VS của ta như vậy, nhưng lại
được lạm dụng như một chức danh cao quý
trong giới GD và KH của ta để tạo ra ấn
tượng VN đã có nhiều bác học hàng đầu
thế giới