Những bài cùng tác giả
Vấn đề đặc biệt quan trọng của quản lý khoa học và
công nghệ là đánh giá hiệu quả của nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ. Nói cụ thể hơn, đó là
kết quả của việc nghiên cứu và triển khai (R&D).
• Phát triển khoa học công nghệ theo cách nào?
• Sức bật nào cho giáo dục, đào tạo và khoa học công
nghệ?
Theo báo cáo của hãng dự báo RAND biên soạn cho Ngân
hàng Thế giới, năng lực khoa học và công nghệ của
Việt Nam đang đứng thứ 94 trên thế giới sau Malaysia
(thứ 71), Thái Lan (73), Philippines (80)...
Để xem xét thực trạng nền khoa học công nghệ trong
nước, cần có 3 nhóm tiêu chí:
- Nguồn lực đầu vào, như cán bộ R&D, đầu tư cho R&D…
- Kết quả đầu ra, như số lượng công trình khoa học
công bố, số lượng bằng sáng chế đã đăng ký…
- Tiêu chí tác động, như số lần công trình được dẫn
chứng…
Hiện nay, các cơ quan quản lý khoa học công nghệ
thường nói nhiều về các chỉ tiêu đầu vào với định
nghĩa về R&D không rõ ràng. Trong khi đó, chúng ta
lại không báo cáo các chỉ tiêu đầu ra theo tiêu chí
quốc tế, còn các chỉ tiêu tác động thì được phát
biểu một cách tuỳ tiện, thường hay dựa trên lời khen
của lãnh đạo, không dựa trên một cơ sở lý luận được
chấp nhận nào cả. Những thông tin dạng này lại cứ
được lan truyền theo kiểu truyền miệng, không có một
tài liệu viết nào. Sự thực thì sự phát triển khoa
học và công nghệ nước ta, nhìn vào các kết quả đã
đạt được thật đáng lo ngại.
Các số liệu lấy từ Viện Thông tin khoa học (ISI) ở
Philadelphia theo dõi sự phát triển khoa học và công
nghệ ở các nước trên thế giới, cho thấy:
- Xét về số lượng các công trình khoa học công bố,
ta ở sau Thái Lan khoảng 20 năm.
- Xét về chiều hướng phát triển, nếu tiếp diễn tình
trạng này, Việt Nam sẽ càng ngày càng thua kém Thái
Lan.
Trong khi đã có một số nhà nghiên cứu báo động về
tình trạng tụt hậu của khoa học và công nghệ nước ta
nhưng các cơ quan quản lý từ thấp đến cao vẫn hoàn
toàn dửng dưng, xem nó như chuyện ở đâu! Cách đây
mấy năm, khi giúp Ban Thông tin - tư liệu của Viện
Chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ, tôi
đã cử người đến Trung tâm thông tin khoa học của
Trung tâm KHTN & CNQG, hiện nay là Viện Khoa học và
công nghệ Việt Nam, để xin số liệu về số lượng công
trình khoa học của cán bộ trung tâm này trên các tạp
chí quốc tế, kết quả là chỉ duy nhất Viện Cơ học có
số liệu.
Chúng ta có thể hỏi: nếu các số liệu như vậy mà
không có thì các cơ quan quản lý khoa học và công
nghệ của trung tâm quốc gia và cả của Bộ Khoa học và
công nghệ nữa, quản lý cái gì? Nói đến R&D mà chúng
ta chỉ kể đến đầu vào, không nhắc đến đầu ra (theo
tiêu chuẩn quốc tế) thì có khác nào nói đến phát
triển kinh tế mà chỉ kể ra dân số, không nhắc đến
GDP.
Chỉ tiêu đầu vào
GS-TS Nguyễn Xuân Hãn đã nêu một nghịch lý là, trong
khi ta thua kém Thái Lan và các nước khác trong khu
vực về số lượng công trình khoa học, thì số lượng
tiến sĩ của ta lại đứng ở đầu bảng! Theo GS Phạm Duy
Hiển, số người làm R&D của ta hiện rất lớn so với
Thái Lan: 21.000 so với 6.400! Các con số này có thể
khác nhau ít nhiều tuỳ theo nguồn tài liệu, song bản
chất của vấn đề vẫn không thay đổi. Trong khi đó,
đơn cử như ở Philippines, để bảo vệ luận án tiến sĩ
(Ph.D), nghiên cứu sinh đã phải có ít nhất một công
trình công bố trên các tạp chí quốc tế theo danh mục
của ISI.
Chỉ tiêu đầu ra
Để đánh giá khả năng sáng tạo công nghệ của một quốc
gia, số đo cơ bản được sử dụng là số lượng bằng sáng
chế được cấp bởi những cơ quan có uy tín trên thế
giới. Vào khoảng năm 1997, số bằng sáng chế được cấp
ở Mỹ đối với người Mỹ là 80.295, Nhật: 30.841, Hàn
Quốc: 2.359, Singapore: 120, Trung Quốc: 3.100,
Malaysia: 23, Thái Lan: 13, Philippin: 8. Trong các
thống kê của Việt Nam, ta chỉ thấy số liệu về bằng
sáng chế của người Việt là... 1.
Rõ ràng, khả năng sáng tạo công nghệ của ta hiện nay
rất yếu. Về mặt này, ta thua Thái Lan còn xa hơn về
nghiên cứu khoa học.
Sử dụng chỉ tiêu số lượng bằng sáng chế được cấp ở
Mỹ hay ở một nước công nghiệp tiên tiến khác, là để
biết về trình độ sáng tạo công nghệ, chúng ta đang ở
vị trí nào trên thế giới, ở khoảng cách nào đối với
những nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á.
Theo báo cáo của hãng dự báo RAND biên soạn cho Ngân
hàng Thế giới, năng lực khoa học và công nghệ của
Việt Nam đang đứng thứ 94 trên thế giới sau Malaysia
(thứ 71), Thái Lan (73), Philippines (80)...
Chỉ tiêu tác động
Công bố kết quả nghiên cứu không phải là để khoe
tài, mà là để trao đổi với các đồng nghiệp, mong
được sự nhận xét của họ (ngoài sự đánh giá ngang
hàng - peer review - của những người phản biện của
tạp chí). Và nếu được họ sử dụng thì tác giả sẽ thấy
rõ thêm giá trị công trình của mình.
Các khái niệm cơ sở của quản lý khoa học và công
nghệ cũng rất đáng bàn. Sự lẫn lộn giữa những khái
niệm cơ bản: study (tạm dịch là khảo cứu, còn nếu
dịch là nghiên cứu thì cần nhớ rằng, đó không phải
là nghiên cứu khoa học) với research (nghiên cứu). Ở
nước ta hiện nay, hai khái niệm này được gọi chung
là nghiên cứu và được hiểu rất phổ biến là nghiên
cứu khoa học. Và như thế, chúng ta chưa thể nói cùng
tiếng nói với thế giới khoa học rộng lớn được.
Vẽ lại bức tranh nền khoa học nước ta theo đúng các
tiêu chuẩn quốc tế là sự chẩn đoán cần thiết đầu
tiên trước khi cùng bàn đến việc kê đơn bốc thuốc.
Tôi xin nhắc lại câu nói của nhà triết học Anh
Francis Bacon ở thế kỷ XVI, đại ý: Từ cái sai có thể
xuất hiện chân lý, nhưng từ cái lộn xộn thì không ra
cái gì cả(!).
*Lời tòa soạn: Giáo sư Đặng Mộng Lân tâm sự: "Tôi
viết bài này bằng tất cả sự đau lòng, sự tận tâm và
nhiệt huyết của một người làm khoa học".
Đã đăng trên VietNamNet
|