Những bài cùng tác giả
Để phát
triển nền giáo dục nước nhà, ta cần nhận thức được vị trí của mình trong mối
tương quan với các nước khác. Muốn biết rõ hơn Việt Nam hiện nay đang đứng ở
đâu trên bản đồ giáo dục thế giới, trước hết, ta hãy nhìn lại những vị thế
của giáo dục Việt Nam trong quá khứ.
Việt Nam đã từng tiếp xúc mật thiết với các nền giáo dục hàng
đầu thế giới. Thời phong kiến, ta chịu ảnh hưởng sâu sắc giáo dục Trung
Quốc, lấy Nho giáo làm nền tảng triết lý giáo dục. Hệ thống giáo dục Trung
Quốc thuộc hàng đồ sộ thế giới, qua đó, Việt Nam cũng tiếp thu nhiều tinh
hoa của giáo dục nhân loại. Chúng ta có quyền tự hào về thành tích khoa cử
và những di sản văn hóa, giáo dục mà cha ông để lại. Có lẽ trong nền giáo
dục châu Á thời trung đại, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc.
Thời cận đại, giáo dục Việt Nam rẽ theo quỹ đạo Phương Tây, chịu
ảnh hưởng sâu sắc nền giáo dục Pháp – trung tâm văn minh thế giới. Ta đã
hình thành một hệ thống giáo dục bài bản, đào tạo ra những trí thức bậc cao,
đóng góp rất nhiều cho đất nước. Trong bản đồ giáo dục thế giới thời đó,
Việt Nam đứng trong hệ thống giáo dục Pháp (nếu tính yếu tố hiện đại, ở châu
Á, có lẽ ta chỉ đứng sau Nhật).
Ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, bên cạnh tiếp thu những thành
tựu giáo dục từ thời phong kiến và Pháp thuộc, nay bổ sung thêm những thành
tựu giáo dục của Mỹ - nền giáo dục hiện đại nhất thế giới. Hệ thống giáo dục
đại học phát triển lên một tầm cao mới, trong đó có Viện đại học Sài Gòn đạt
đẳng cấp quốc tế, đào tạo cả cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Nền giáo dục Việt
Nam cộng hòa đứng trong hệ thống giáo dục TBCN và là một trong những nền
giáo dục hàng đầu châu Á.
Ở miền Bắc sau 1954, hệ thống giáo dục chuyển sang quỹ đạo XHCN,
chịu ảnh hưởng sâu sắc mô hình giáo dục Liên Xô từ mục tiêu đào tạo, chương
trình học đến quan điểm học thuật... Các trí thức được đào tạo từ Liên Xô,
Đông Âu, Trung Quốc… về đã tạo ra một không khí mới cho giáo dục Việt Nam,
làm nên một số thành tựu nổi bật trong lĩnh vực khoa học cơ bản, nhất là
Toán học. Trong bản đồ giáo dục thế giới 1955 – 1990, Việt Nam đứng trong hệ
thống giáo dục XHCN.
Sau khi hệ thống XHCN tan rã, giáo dục Việt Nam rơi vào bi kịch
vì không biết tựa vào đâu. Những thành tựu của giáo dục Trung Quốc, Pháp,
Mỹ, Liên Xô… vẫn còn đó tạo ra thế mạnh nhưng cũng là vấn đề khó khăn vì
không biết vận dụng và lắp ghép chúng sao cho hợp lý. Người chủ trương theo
mô hình này thì bị người theo mô hình kia phản đối. Người ta cũng dung hợp
các mô hình lại nhưng mỗi vị lãnh đạo thiết kế theo một kiểu khác nhau, làm
nửa chừng phải bỏ, rồi làm lại…. Suốt 20 năm nay, người ta vẫn loay hoay
tranh cãi chưa biết giáo dục Việt Nam nên đặt bệ phóng ở đâu.
Sau Đổi mới, giáo dục Việt Nam đạt được những thành tựu lớn. Tuy nhiên, ta
phát triển thì các nước khác cũng phát triển, vậy, giáo dục của ta đứng ở vị
thứ nào ? Nhìn vào danh sách các trường đại học hàng đầu thế giới, Việt Nam
không có. Nhìn vào giải Nobel và các thành tựu khoa học lớn, ta cũng không
có. Nếu có người Việt Nam nào tài giỏi thì vinh dự đã thuộc về nước khác mất
rồi ! Việt Nam chỉ có công sinh thành chứ không có công dưỡng dục các nhân
tài đẳng cấp quốc tế.
Thế giới thừa nhận người Việt Nam thông minh, cần cù nhưng hình như chúng ta
chưa biết sử dụng những ưu thế đó để làm việc gì thích hợp. Có thể ta đã
dùng nó vào những việc lạc hậu như học thuộc lòng các loại kinh kệ cổ lỗ
thay vì phải viết ra một cuốn sách mới. Nhiều nhà khoa học có tư duy hiện
đại, năng động nhưng không có đất dụng võ ở Việt Nam. Lâu nay, ta chỉ quen
mang tiền đi học nước ngoài chứ không thu hút sinh viên nước ngoài mang
đô-la sang học Việt Nam. Như vậy giáo dục Việt Nam chưa có vị trí nào trên
thương trường thế giới.
Có người tự hào rằng, tỷ số GDP đầu tư cho giáo dục của Việt Nam
rất lớn so với nhiều nước khác. Việc này chẳng nói lên điều gì vì không biết
số tiền ấy sẽ rơi vào túi ai và cơ chế bao cấp không giúp ích cho sự cạnh
tranh giáo dục. Có người chủ trương bỏ ra khoản tiền khổng lồ phổ cập trung
học (để khoe với thế giới). Xin thưa rằng, cơ chế nước ta còn tạo điều kiện
phổ cập cả bậc cử nhân ! Nhưng nếu Việt Nam là nước đầu tiên thế giới phổ
cập đại học thì liệu có ra khỏi danh sách các nước nghèo ?!!
Nhiều cơ quan vẽ ra chỉ tiêu (và hợp thức hóa) bao nhiêu phần trăm thạc sĩ,
tiến sĩ để nâng tầm giáo dục. Thực ra, đó cũng là một dạng của bệnh thành
tích, bệnh háo danh đang gây cản trở trên đường hội nhập. Ta coi trọng danh
hão nên đào tạo cái bằng để hợp thức hóa việc làm và chức vụ trong các cơ
quan nhà nước. Trong khi đó, nền kinh tế thị trường cần người thực tài, cho
nên kỹ sư của ta ra nước ngoài bị chê, phải đào tạo lại. Bằng đại học ở Việt
Nam hiện nay hầu như không có giá trị quốc tế.
Nhìn vào bản đồ giáo dục thế giới, ta không thấy Việt Nam đâu cả
? Trí ta đã có, lực ta đã sẵn nhưng có lẽ do ta chưa xác định rõ mình phải
đứng ở đâu nên thế giới chưa biết xếp ta vào vị trí nào !!!
|