Những bài cùng tác giả
Một trong những đặc điểm đáng chú ý trong giới quan chức Việt Nam là họ
thường có bằng cấp rất cao. Thật vậy, chỉ nhìn qua những danh thiếp của cấp
thứ trưởng, vụ trưởng, hay thỉnh thoảng đọc báo về chức danh của các bộ
trưởng, chúng ta thấy họ thường là tiến sĩ hay thạc sĩ. Ngược lại, đối với
giới quan chức nước ngoài, ấn tượng tôi có qua các danh thiếp của họ là
trình độ học vấn trung bình, thường thường là bậc cử nhân, rất hiếm thấy bộ
trưởng các nước phương Tây có bằng tiến sĩ. Nhưng đó chỉ là ấn tượng, chứ
chưa có bằng chứng nào để so sánh cụ thể. Theo tôi biết, cho đến nay, vẫn
chưa có ai làm thống kê để biết trình độ học vấn của quan chức Việt Nam và
ngoại quốc như thế nào. Có được những thông tin này tôi thiết nghĩ cũng thú
vị vì nó cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về trình độ của các
quan chức chính phủ.
Tôi chọn các quan chức cấp bộ trưởng, vì thông tin về các vị này tương đối
đầy đủ hơn. Các thông tin về chức vụ, năm sinh, trình độ học vấn của các bộ
trưởng (hay quan chức tương đương cấp bộ trưởng) của
Việt Nam,
Mĩ, và
Úc được thu thập cho từng cá nhân. Riêng trường hợp Việt Nam, tôi còn
thu thập thêm thông tin về quê quán để xem sự phân phối giữa 3 miền ra sao.
Kết quả cho thấy nội các của Việt Nam có 26 thành viên, ít hơn Úc (28
người), nhưng đông hơn Mĩ (23 người). Tuy nhiên, có sự mất cân
đối nghiêm trọng về phân bố giới tính. Trong số 26 thành viên
nội các chính phủ Việt Nam, chỉ có 1 nữ duy nhất: đó là bà Nguyễn Thị Kim
Ngân. Trong khi đó, nội các chính phủ Mĩ có đến 7 người là nữ, và con số này
chiếm gần 1/3 chính phủ Obana, nhiều hơn cả chính phủ Úc với 4/28 thành viên
(hay 14%) là nữ giới.
Về tuổi tác, các bộ trưởng trong chính phủ Việt
Nam tương đối cao tuổi hơn so với đồng nghiệp của họ ở Mĩ và Úc. Tuổi trung
bình của các bộ trưởng Việt Nam là 59, kế đến là Mĩ (tuổi trung bình 56) và
Úc (50 tuổi). Người trẻ nhất trong chính phủ Việt Nam là ông Hoàng Trung Hải
(50 tuổi), nhưng người trẻ tuổi nhất trong chính phủ Úc chỉ 33 tuổi (Kate
Ellis, bộ trưởng thể thao), còn bộ trưởng trẻ nhất của Mĩ cũng chỉ 42 tuổi
(ông Peter R. Orszag, giám đốc ngân sách quốc gia, với bằng tiến sĩ từ
London School of Economics).
Về trình độ học vấn, chính phủ Việt Nam có trình
độ cao nhất so với Mĩ và Úc. Trong số 26 thành viên trong nội các chính phủ
Việt Nam, có đến 50% (13 người) có bằng tiến sĩ, 10 người có bằng cử nhân,
và 3 người có bằng thạc sĩ. Phân tích kĩ hơn thì tôi thấy trong số 13 tiến
sĩ bộ trưởng Việt Nam, phần lớn là tiến sĩ về kinh tế (7 người, gồm các ông
Nguyễn Sinh Hùng, Phạm Khôi Nguyên, Vũ Huy Hoàng, Lê Doãn Hợp, Trần Văn
Tuấn, Cao Đức Phát, và Nguyễn Văn Giàu), phần còn lại là xã hội học (ông
Nguyễn Quốc Triệu), luyện kim (ông Phạm Gia Khiêm), điều khiển học (ông
Nguyễn Thiện Nhân), luật (ông Hà Hùng Cường), kiến trúc (ông Nguyễn Hồng
Quân), và toán lí (ông Hoàng Văn Phong).

Ở
Úc, trong số 28 thành viên chính phủ, chỉ có 1 người duy nhất có bằng tiến
sĩ (ông Craig Emerson), 5 người có bằng thạc sĩ, và đa số (22 người ) có
bằng cử nhân. Nội các chính phủ Obama có trình độ học vấn cao hơn Úc một
chút, nhưng vẫn còn thua xa so với Việt Nam. Trong số 23 thành viên, 7 người
có bằng tiến sĩ, 8 người với bằng thạc sĩ, và 8 người với bằng cử nhân.
Nếu [tạm] tính PhD là 10 năm theo học đại học, thạc sĩ 6 năm, và cử nhân 4
năm, thì tính trung bình mỗi bộ trưởng hay thành viên trong nội các chính
phủ VN có 7.2 năm học đại học, kế đến là Mĩ (6.5 năm), và thấp nhất trong
nhóm là Úc (4.6 năm).
Phân tích theo vùng. Nói đến Việt Nam là phải nói
đến chính trị vùng. Tình hình phân bố các thành viên và trình độ học vấn
trong nội các chính phủ Việt Nam không đồng đều giữa 3 vùng. Trong số 26
thành viên, đa số là từ miền Bắc (12 người, hay 46%), miền Trung và miền Nam
mỗi miền có 7 người. Điều thú vị ở đây là trong số 12 thành viên từ miền
Bắc, có đến 8 người (67%) có bằng tiến sĩ. Số thành viên có bằng tiến sĩ từ
miền Trung là 3/7 (43%), và miền Nam là 2/7 (28%).
Vài nhận xét
Trong loạt bài về những bất cập trong việc đào tạo tiến sĩ trên
Sài Gòn Giải Phóng, tác giả viết như sau: “Nhà khoa học, nhà quản lý
các nước cũng sẽ rất ngạc nhiên khi biết được trong đội ngũ cán bộ của ta
hiện nay, tỷ lệ TS rất cao! […] Trên các nước, TS nếu có trong bộ máy quản
lý nhà nước thì cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất ít.” Những phân tích trong bài
này phù hợp với nhận xét đó. Phân nửa các bộ trưởng (hay quan chức tương
đương bộ trưởng) Việt Nam có bằng tiến sĩ, và con số này cao hơn so với
chính phủ Mĩ và Úc, hai nước mà trình độ dân trí cao hơn Việt Nam. Tôi chưa
có bằng chứng, nhưng tôi nghi rằng tỉ lệ tiến sĩ trong chính phủ Việt Nam có
lẽ là cao nhất thế giới.
Ở Việt Nam đang tồn tại một nghịch lí lạ lùng: muốn đề bạt chức vụ nào đó
thì phải có bằng cấp tương xứng. Chẳng hạn như điều kiện tiên quyết cho chức
vụ giám đốc sở thì phải là bằng cử nhân hay thạc sĩ, trưởng khoa một bộ môn
trong bệnh viện thì cần phải có bằng tiến sĩ và … đảng viên. Do đó, người ta
đổ xô nhau đi “làm” tiến sĩ, tìm mọi cách và mọi giá để có một cái bằng tiến
sĩ chỉ để thăng quan tiến chức, hơn là phục vụ cho khoa học. Chú ý là người
ta “làm” tiến sĩ, chứ không hẳn là “học” tiến sĩ. Động từ “làm” ở đây bao
gồm nhiều hành động, kể cả những việc làm có thể xem là tiêu cực.
Tuy nhiên, qui định bằng cấp và chức vụ đó là ở cấp địa phương và cơ sở, còn
đối với các cấp bộ trưởng hay tương đương thì tôi nghĩ không có qui định
bằng cấp càng cao mới được bổ nhiệm chức cao, vì ở cấp này, vị thế và thành
tích chính trị đóng vai trò quan trọng hơn là bằng cấp. Nhưng trước khi làm
bộ trưởng thì các vị này cũng đã trải qua các chức vụ thấp hơn, nên nhu cầu
bằng cấp lúc đó ắt phải có. Điều này có nghĩa là phong trào tiến sĩ và chức
vụ đã xảy ra trước đây, và bây giờ chính là giai đoạn gặt hái thành quả.
Hiểu theo nghĩa này, tôi nghĩ trong tương lai chúng ta sẽ còn thấy nhiều
tiến sĩ trong chính phủ hơn nữa. Nhiệm kì tới biết đâu con số bộ trưởng có
bằng tiến sĩ không phải là 50% như bây giờ mà có thể là 2/3.
Tiến sĩ là học vị cao nhất trong hệ thống bằng cấp đại học. Thông thường,
con số người có bằng tiến sĩ thấp hơn con số thạc sĩ, và số người với bằng
thạc sĩ ít hơn số người với bằng cử nhân. Đó là xu hướng mà chúng ta thấy ở
Mĩ và Úc. Ở Úc, chỉ có 1 bộ trưởng duy nhất có bằng tiến sĩ. Nhưng trong
chính phủ Việt Nam thì ngược lại: số người có bằng tiến sĩ nhiều hơn số
người có bằng cử nhân và thạc sĩ. Đó là một sự phân bố bất bình thường. Sự
bất bình thường đó đặt ra câu hỏi có phải bằng tiến sĩ ở Việt Nam quá dễ
“lấy”. Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng những lem nhem và bất
cập về cách đào tạo tiến sĩ ở trong nước mà báo chí phản ảnh trong thời gian
qua làm cho xã hội đánh một dấu hỏi lớn.
Thật ra, nhìn một cách tích cực hơn, chính phủ có nhiều tiến sĩ là một tín
hiệu tốt. Con số 50% bộ trưởng có bằng tiến sĩ cho thấy nước ta đúng là nước
có trình độ học vấn cao, có lẽ cao nhất thế giới. Phần lớn các tiến sĩ bộ
trưởng học về kinh tế, và điều này nói lên rằng chúng ta có thể tin tưởng
rằng kinh tế VN sẽ phát triển vượt bực nay mai. Trong khi chưa có bằng chứng
cho phát biểu đó, chúng ta hãy cứ tin và hi vọng vậy.
Ở các nước tiên tiến, phần lớn tiến sĩ làm việc trong các đại học và trung
tâm nghiên cứu, với một thiểu số nhỏ làm việc trong ngành quản lí. Ở Việt
Nam thì ngược lại: phần lớn tiến sĩ làm trong ngành quản lí hành chính, rất
ít người giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Thật vậy, chỉ có khoảng
~20% giảng viên trong các đại học lớn ở VN có văn bằng tiến sĩ. Trong khi
đó, 50% bộ trưởng VN có bằng tiến sĩ. Một câu hỏi khác cũng cần đặt ra là
chính phủ có cần nhiều tiến sĩ như thế hay không trong khi các trường đại
học rất thiếu giảng viên ở trình độ tiến sĩ?
NVT
|