4 tỷ đô la cho giáo dục, và 100 triệu USD doanh thu
của nhà xuất bản giáo dục được tính như thế nào?
(Lời của Ông Hiển tỏ ý bức xúc trước thông tin giáo
dục Việt Nam mỗi năm tốn “4 tỷ USD chiếm 10% GDP; chưa có nước nào đầu
tư như vậy1. Nhà xuất bản Giáo dục có chuyện này chuyện kia
cần phải góp ý, nhưng nói lãi hàng ngàn tỉ là không chính xác”.
Vnexpress 15.11.2004)
Ngày 15/11vừa qua, Quốc Hội đã nghe báo cáo tình
hình giáo dục của Bộ GD-ĐT, và trong suốt một ngày làm việc, đã có hàng
chục ý kiến đóng góp cũng như chất vấn Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển về
những vấn đề tồn tại của giáo dục Việt Nam, Trong giải trình của mình,
Bộ trưởng đã nhấn mạnh đến một con số đang làm xôn xao dư luận: 4 tỷ
USD cho giáo dục, có hay không? và 100 triệu USD là doanh số của NXBGD
hàng năm? Là người đưa ra con số trên xin Quốc hội xem lại lại thông
tin này.
Con số 4 tỉ USD do tôi đánh giá và đưa ra khi Bộ
GD-ĐT đề nghị tăng học phí. Việc tăng học phí có nên hay không, chúng ta
chỉ có thể trả lời khi biết rõ tổng thu và tổng chi của ngành giáo dục.
Chi tiêu cho giáo dục của Nhà nước và của dân ngày càng tăng, vào 2003
đã đạt con số 4 tỷ2 USD/năm, trong đó có 2 tỷ USD của Nhà
nước và 2 tỷ của USD dân. Toàn bộ cách tính toán này được phát biểu công
khai tại cuộc họp do Ban khoa giáo Trung ương và Bộ GD-ĐT tổ chức, trong
đó có hai Đ/c nguyên Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Đỗ Mười và Lê Khả
Phiêu tham dự, và nhiều chuyên gia của các Ban ngành tham gia ngày
6/10/2004 tại số 7 Nguyễn Cảnh Chân, còn tài liệu tôi đã chuyển trực
tiếp cho Bộ trưởng Bộ GD-ĐT từ vài tháng nay. Rất tiếc lãnh đạo Bộ GD-ĐT
phát biểu tại QH đã giải thích sai bản chất của vấn đề.
Tiền Nhà nước:
Trong đó có 2 tỉ
USD của Nhà nước, theo tin từ Vnexpress, ngày 23/1/2003. “Chi 30.
000 tỉ ĐVN (khoảng 2 tỉ USD). Trong đó 970 tỉ ĐVN dành cho chương trình
giáo dục, 400 tỉ ĐVN cho phổ cập giáo dục cơ sở”. Theo con số
của Bộ GD-ĐT vào năm 2003 có sự tổng hợp như sau: tính đến nay có 114 dự
án với số tiền là 989,5 triệu USD bao gồm: (vốn vay 404,1 triệu USD cho
8 dự án lớn) + (Viện trợ không hoàn lại là 477,35 triệu USD) + (vốn đối
ứng là 108,7 triệu USD). Thực chất vay của nước ngoài là 880,8 triệu
USD. Trong con số 4 tỉ USD, không kể khoản tiền này.
Triển khai các chủ trương chính sách, nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống đòi hỏi sự hiểu biết ở tầm quốc gia. Nếu
chỉ dừng tính toán “học phí” theo kiểu hành chính, theo thiển nghĩ của
tôi chưa đủ. Hiện người dân ta thán nhiều khoản đóng góp chưa có cơ sở
pháp lý. Ví dụ mà Đài truyền hình Việt Nam đã phát gửi Quốc hội . Theo
điều tra ở phường Chương Dương gần Trung tâm Thủ Đô, trong số gần 1
triệu VNĐ đóng góp đầu năm, thì chỉ có 18% là hợp lý, còn 82% là phi lý
(Báo Văn Nghệ trẻ 10/10/2004). Vậy con số 82%, trong đó có cả tiền học
thêm, quỹ phụ huynh, tiền thăm cô giáo ốm, tiền quà ... có phải là tiền
dân phải chi cho giáo dục không?
Phải chăng sự khác nhau ở đây có thể là nhận
thức chưa hết vai trò nhiệm vụ của mình, nên cả hai con số đã được đăng
tải trên phương tiện thông tin đại chúng, kể cả VTV do tôi đưa ra và Đ/c
Nguyễn Minh Hiển trình Quốc hội, lại bị vênh nhau ?
Tiền của dân:
Có 3 cách đánh giá
khác nhau
Cách 1.
Trong cuốn “Việt Nam-
Nghiên cứu tài chính cho Giáo dục” do Bộ KH-ĐT và Ngân hàng thế
giới xuất bản (10/1996- trang 5), đưa ra số liệu phối hợp điều tra: “Chi
tiêu của các hộ gia đình cho GD&ĐT ở mọi cấp chiếm 43% tổng chi tiêu
(của cả Chính phủ và các hộ gia đình cho GD&ĐT) vào năm 1994”.
Trên dưới 50% chi phí cho học sinh phổ thông do dân đóng
góp. Theo kết quả phối hợp nghiên cứu giữa Bộ GD-ĐT với Ngân hàng thế
giới và các Bộ ngành về mối quan hệ giữa chi phí ngân sách và của nhân
dân đóng góp trên 1 đầu HSSV, hiện nay bậc ĐH,CĐ đang có phần chi ngân
sách nhà nuớc cao nhất là 69,3% phần đóng góp ít nhất chỉ có 30,7%, tỉ
lệ tương ứng của THCN là 67, 8 % và 32.2%. Trong khi đó các bậc phổ
thông đều có mức đóng góp của người dân khá cao như Tiểu học 44,5%, THCS
là 48,7%, THPT là 51,5%. Riêng với dạy nghề phần đóng góp của người dân
trong chi phí dành cho học sinh lên tới 62,1% (Báo Tuổi trẻ
HCM-24/11/2001).
Cách 2.
“Theo số liệu điều tra
mức sống dân cư Việt Nam của TCTK, tính bình quân, chi tiêu cho mỗi học
sinh từ mẫu giáo đến đại học, thành thị là 1,298 triệu VNĐ/năm (tương
đương 90 USD) và ở nông thôn là 357.000 VND/năm (tương đương 23 USD).
Nếu so với mức thu nhập bình quân thực tế của người VN trong vài ba năm
gần đây khong 300 - 400 USD/năm thì chi tiêu cho GD như vậy là quá cao”
(Báo SGGP, ngày 8/12/2003).
Cách 3:
Dựa vào tỷ lệ xã hội
hoá. Căn cứ trên phát biểu của Bộ trưởng Hồ Tế tại Quốc hội (1996)3:
“Khoản chi cho GD là 8100 tỉ đồng, nhưng khoản chi ngoài ngân sách lớn
hơn ba lần”. Tỉ lệ Nhà nước 1, còn bên ngoài 3. Theo kinh nghiệm của
các chuyên gia trong lĩnh vực xã hội hoá giáo dục, ta xét thấp nhất là
tỉ lệ 1:1, thì con số ước đoán cũng là 2 tỉ USD.
Về con số 100 triệu USD là con số doanh thu
của NXBGD.
Con số 100 triêu USD này, đã được tính
nhiều lần trước Đ/c Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển, và Giám đốc NXBGD4
tại các cuộc họp do Nhà nước tổ chức. Việc phân chia lợi nhuận như thế
nào tôi không biết, nên chỉ nói doanh thu, chứ không nói lợi nhuận! Còn
việc tính toán dựa trên số liệu của Cục xuất bản nhân kỷ niệm 50 năm
ngày thành lập và số tem “chống in lậu” do NXB sử dụng. “ Năm 2001, tổng
số xuất bản phẩm được xuất bản và phát hành là 237,760 triệu bản với
tổng doanh thu là 1.705 tỉ đồng”. Trong đó NXBGD có 200 triệu ấn phẩm
xuất bản, (8 tỉ tiền tem, mỗi cái tem 40 ĐVN). Vòng đời mỗi bộ SGK dùng
trong trường ít nhất là 10 năm/lần, như Srilanca còn cung cấp miễn phí
SGK cho toàn bộ bậc học phổ thông. Nguyên nhân sâu xa, chương trình và
SGK theo luật phải do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quản, khi cải cách phải do
Chính phủ5 chịu trách nhiệm. Không rõ, vô tình hay cố ý,
trách nhiệm “tổ chức” của Bộ trưởng lại được trao cho GĐ NXBG, để kinh
doanh! “Việc chia nội dung môt cuốn SGK thành nhiều phần, người
soạn phần trước không được soạn đoạn sau”. Khi trình bầy cách
làm này với các nhà khoa học mọi người đều thất kinh, sản phẩm này phải
bỏ đi.