Những
bài cùng tác giả
Ở Việt Nam ngày nay có một nghịch lý trong giáo dục và đào tạo là càng ngày
càng có nhiều học sinh trung học Việt Nam đoạt nhiều giải thưởng trong các
kỳ thi vô địch quốc gia và quốc tế, nhưng sinh viên tốt nghiệp đại học lại
không đảm trách được những nhiệm vụ mà đáng lẽ họ phải làm được, và trong
nhiều trường hợp, phải được huấn luyện lại.
Hàng năm, các đội tuyển học sinh cấp trung học của Việt Nam đem về cho nước
nhà nhiều huy chương vàng, bạc, đồng trong các kỳ thi quốc tế. Trong khoảng
30 năm qua, Việt Nam liên tục là một trong mười nước dẫn đầu (trong tổng số
khoảng 260 nước trên thế giới) về các kỳ thi vô địch toán quốc tế (1). Riêng
ở Á châu, các đội thi tuyển toán của Việt Nam liên tiếp đứng đầu trong nhiều
năm, tạo nên tiếng vang và sự kính nể của các nước trong vùng. Việt Nam cũng
là một nước "mạnh" trong các kỳ thi vô địch về tin học, sinh học, vật lý, và
hóa học. Về tin học, Việt Nam được xếp hạng thứ 15 trong số khoảng 200 nước
trên thế giới tham dự, và hạng 4 ở Á châu, và hạng nhất trong khối ASEAN.
Trong khi học sinh bậc trung học đã đem tên tuổi Việt Nam vào "bản đồ" toán
học và khoa học thế giới, thì sinh viên bậc đại học lại bị mang tiếng là...
dở. Theo một nghiên cứu về kỹ năng tiếng Việt trong các sinh viên khoa ngữ
văn năm 1997-1998 tại Trường Ðại học Sư phạm Sài Gòn, trong số 752 sinh viên
từ năm thứ nhất đến năm thứ tư (những cử nhân văn chương tương lai), chỉ có
45% đạt yêu cầu về chính tả và 26% đạt yêu cầu về cú pháp. Người viết bài
này cũng đã có dịp chứng kiến nhiều sinh viên đại học và học sinh lớp 12 làm
một con toán theo quy tắc tam suất hay tính toán phần trăm chưa rành, còn mù
mờ những sự kiện văn học quan trọng, viết sai chính tả, không viết nổi những
câu văn cho đúng ngữ pháp, v.v. Thật là mỉa mai và xấu hổ khi so sánh trình
độ của những người tốt nghiệp đại học ngày nay với những người tốt nghiệp tú
tài Pháp ngày xưa. Với trình độ tú tài mà các cụ ngày xưa đã có thể đảm nhận
những công việc "thầy phán," "thầy ký" bằng cả hai thứ tiếng Việt và Pháp;
họ còn có kiến thức uyên thâm; dịch sách tiếng nước ngoài sang tiếng Việt
khá chính xác. Trong khi đó, những anh chị cử nhân ngày nay có khi không
soạn nổi một bài luận văn cho có hệ thống. Trình độ của họ không khác gì các
sinh viên ở các đại học trung bình ở Mỹ.
Nói chung, sự tụt hậu về kiến thức của sinh viên so với các tiêu chuẩn chất
lượng là khá lớn. Sinh viên ra trường chưa đảm nhận được công việc mà đáng
lẽ những người được đào tạo như thế phải làm được, vì thiếu ý thức chủ động
trong làm việc, thiếu khả năng ứng xử trong làm việc, thiếu năng khiếu về
ngoại ngữ và quản lý, v.v... Một viên chức người Việt thuộc Chương trình
Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) nhận xét: "Hệ thống GD-ÐT [giáo dục và đào
tạo] lâu nay của Việt Nam còn bất cập. Tỷ lệ người được đào tạo ra đạt tiêu
chuẩn quốc tế là rất ít. Mọi việc cứ diễn ra một cách bình thường. Chỉ khi
nào những tiêu chuẩn quốc tế được "soi" vào, chúng ta mới giật mình. Thực tế
là khi soi vào tiêu chuẩn của UNDP, hàng loạt cán bộ chuyên viên của Việt
Nam đã không đáp ứng được điều kiện cần và đủ". Theo thống kê của Bộ Giáo
dục và Ðào tạo ở trong nước, hàng năm có khoảng 20.000 sinh viên tốt nghiệp
đại học và cao đẳng. Trong số này, chỉ có 50% sinh viên tốt nghiệp kiếm được
việc làm sau khi tốt nghiệp; và trong số tìm được việc, chỉ có 30% tìm được
việc đúng ngành nghề. Ngay cả những sinh viên đã tìm được việc làm, họ đều
phải được huấn luyện lại, nhất là ở các công ty ngoại quốc. Theo nghiên cứu
của bà Maureen Chao thuộc Trường Ðại học Seattle (Mỹ), trong nhiều công ty
liên doanh với Việt Nam, hầu hết sinh viên Việt Nam đều phải được đào tạo
lại cả về chuyên môn lẫn kỹ năng giao tiếp!
Trong một cuộc hội thảo với chủ đề "Toán, lý, hóa trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" vào ngày 28/4/2000, một đại biểu của Hội
Toán học Việt Nam đánh giá trình độ sinh viên tốt nghiệp trong nước như sau:
"Có thể nói không quá đáng rằng, trình độ đại học hiện nay chỉ bằng đại học
đại cương (hai năm đầu của đại học nước ngoài), thạc sĩ bằng đại học, và phó
tiến sĩ chỉ bằng thạc sĩ ".
Tôi nghĩ rằng đánh giá này có phần quá bi quan, và không hoàn toàn đúng với
thực tế, nhưng nó cũng nói lên phần nào thực trạng rất đáng lo ngại cho tình
trạng chất lượng đào tạo đại học ở trong nước.
Tại sao lại có sự sa sút về chất lượng đào tạo nghiêm trọng như thế? Qua
theo dõi tình hình giáo dục ở trong nước, tôi cho rằng có bốn nguyên nhân
dẫn đến tình trạng trên: cơ sở giảng dạy và nghiên cứu, vấn đề sách giáo
khoa, phương pháp sư phạm, và chất lượng đội ngũ giảng viên.
Cơ sở vật chất: nghèo nàn và quá tải:
Theo thống kê, cứ bốn hay năm năm, số học
sinh trung học cơ sở lại tăng gấp đôi. Năm 1988, toàn quốc chỉ có 132,500
sinh viên (trong số 63,7 triệu dân). Năm 1999, có 892,700 sinh viên trong
tổng số dân là 76,3 triệu. Như vậy, tỷ lệ sinh viên trên 10,000 dân đã tăng
gần 6 lần trong vòng 11 năm: từ 20 vào năm 1988 lên đến 117 vào năm 1999.
Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục thì tỷ lệ này sẽ tăng
lên khoảng 200 cho mỗi 10,000 dân số vào năm 2010. Mặc dù. đây là một tiến
bộ đáng mừng, nhưng tỷ lệ này không phải là cao so với các nước đang phát
triển trong vùng.
Trong khi số lượng sinh viên càng ngày càng tăng, số lượng cơ sở đào tạo như
trường đại học và cao đẳng lại gần như bất biến, và do đó, tạo ra tình trạng
quá tải. Các đại học không có khả năng nhận thêm sinh viên, và bắt buộc phải
áp dụng những cơ chế thi cử khắt khe để hạn chế số lượng sinh viên.
Hiện nay trong cả nước có 146 trường đại học và cao đẳng (2); trong đó, có
15 trường dân lập (do tư nhân quản lý), và ba trường bán công. Số trường này
được tổ chức theo 11 khối như sau: đại học quốc gia và đại học vùng; khối kỹ
thuật & xây dựng; khối y dược khoa; khối sư phạm; khoa học tự nhiên; nông
lâm nghiệp & thủy sản; kinh tế, tài chính và luật; văn hóa nghệ thuật và thể
thao; quân sự và công an; ngoại giao; và các trường dân lập.
Số lượng trường đại học có vẻ nhiều, nhưng trong thực tế có nhiều trường đại
học còn rất phôi thai và có thể nói là chưa có đầy đủ tiêu chuẩn của một
trường "đại học". Thực vậy, ngoài các trường lớn và lâu đời như Ðại học Quốc
Gia Hà Nội, Ðại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, Ðại Học Bách Khoa Hà
Nội, Ðại Học Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh có cơ sở nghiên cứu và giảng dạy
tương đối đầy đủ, các trường đại học công lập khác còn thiếu trang thiết bị
cho giảng dạy và nghiên cứu rất trầm trọng và hầu như triền miên. Ở Bệnh
viện Chợ Rẫy, một nơi thực nghiệm cho sinh viên y khoa, nhiều trang thiết bị
cơ bản cho lâm sàng học còn quá thiếu thốn. Ở các trường địa phương và xa
thành phố, tình trạng thiếu sách vở và dụng cụ thí nghiệm/giảng dạy còn trầm
trọng hơn nữa.
Ở các nước Tây phương, đại học vừa là nơi giảng dạy vừa là nơi tập trung các
trung tâm nghiên cứu. Nhưng ở Việt Nam, xuất phát từ các lý do có tính lịch
sử, phần lớn các trường đại học hiện nay chỉ tập trung chủ yếu vào chức năng
giảng dạy, mà chưa làm tròn chức năng nghiên cứu. Thực ra, phần lớn
nghiên cứu thường do các viện (độc lập với trường đại học) đảm nhận.
Tất nhiên, cách tổ chức này cũng làm giảm đi hiệu suất và sự tương tác giữa
các nhà khoa học cùng làm trong một chuyên môn. Thành ra,
kết quả là năng suất khoa học từ các trường đại học Việt Nam rất kém.
Ngoài hai ngành toán và vật lý ra (mà Việt Nam
thường được tương đối kính nể), có thể nói trong các ngành khác mức độ cống
hiến của các giáo sư đại học từ Việt Nam -- trước cũng như sau 1975, ngoài
Bắc cũng như trong Nam -- cực kỳ thấp.
Do đó, không ai ngạc nhiên khi được biết là Trường Ðại học Quốc gia, được
xem là quy cũ nhất trong các trường đại học ở trong nước, chỉ được xếp hạng
62 trên 65 trường đại học trong vùng (Á châu) theo một
cuộc điều nghiên của tờ tuần san Asiaweek gần đây. Hạng này còn sau
cả mấy đại học nhỏ của Mã Lai và Phi Luật Tân! Mặc
dù cách xếp hạng này chỉ là tương đối và có nhiều nghi vấn về phương pháp
làm, nhưng dù cho có so sánh thật khoa học đi nữa thì tôi nghĩ Việt Nam cũng
khó mà vượt cao lên được.
Sách giáo khoa: lạc hậu và bất cập
Những ai từng dạy học hay có dính dáng trực
tiếp tới ngành giáo dục đều biết rằng sách giáo khoa đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng trong việc giảng dạy và mở mang kiến thức cho sinh viên. Trong
các trường đại học ở các nước Tây phương, ngừơi ta
không những nghiên cứu việc chọn và dùng sách giáo khoa rất kỹ lưỡng, mà còn
duyệt xét lại tính hiện hành, cập nhật hóa của sách hàng năm. Trong ngành y
khoa, nhiều khi sách giáo khoa không cập nhật hóa kịp những tiến bộ
của y học, nên giáo sư phải yêu cầu sinh viên tham khảo thêm các tạp chí y
khoa uy tín.
Ở trong nước, sách giáo khoa không những thiếu thốn mà còn có vấn đề, không
những ở bậc trung học mà còn ở bậc đại học. Ðã có
một số nhà giáo lên tiếng về vấn đề một số sách giáo khoa bậc tiểu và trung
học được biên soạn sai. Nhưng quan trọng hơn nữa là sách giáo khoa bậc đại
học, không những thiếu một cách nghiêm trọng, mà
sách đang dùng để dạy nhiều khi đã lạc hậu cỡ 30 - 40 năm. Những ai từng ghé
qua Trường Ðại Học Y Dược ở Sài Gòn hay Trường Ðại học Tổng hợp (Ðại học
Khoa học cũ) hay Trường Ðại học Kỹ thuật (Trung
tâm Kỹ thuật Phú thọ cũ) đều cảm thấy xót xa cho cái thư viện vừa nhỏ
bé vừa nghèo nàn. Trường Ðại Học Y Dược ở Sài Gòn không có những tạp
chí y khoa lớn hiện hành cho giảng viên và sinh viên tham khảo! Trong khi
đó, phần lớn các sách giáo khoa, tạp chí do nước ngoài viện
trợ đều đã quá cũ. Ở vài trường, sinh viên phải "học chay", tức là
học mà không có sách giáo khoa. Chuyện mới nghe qua có vẻ khó tin nhưng có
thật.
Sự thiếu thốn sách giáo khoa và sách lạc hậu này đã dẫn đến một hậu quả có
thể đoán được là: kiến thức khoa học của sinh viên kém hay thậm chí sai,
chất lượng đào tạo bị hạ thấp so với trình độ chung trên thế giới.
Phương pháp dạy học: độc thoại và thụ động
Phương pháp đào tạo chủ yếu trong các trường đại học ở trong nước vẫn chủ
yếu phương pháp "độc thoại" và "thụ động" (mà những người thuộc thế hệ của
người viết bài này hay trước nữa đã từng trải
qua): thầy giảng bài, trò chép bài. Học sinh phải tuân theo sách vở một cách
máy móc. Học sinh phải học thuộc lòng một số kiến thức căn bản, mà không
biết những kiến thức này sẽ ứng dụng vào giải quyết vấn
đề gì. Hậu quả của phương pháp dạy học này làm cho người học sinh trở
nên thụ động, không phát triển được kỹ năng thực
hành, sáng tạo và tính chủ động, tự lập.
Ngoài ra, mối quan hệ tương tác giữa thầy/cô và học sinh cũng còn quá cổ
kính. Học sinh không được khuyến khích chất vấn thầy cô, mà phải tuân theo
họ một cách gần như tuyệt đối. Học sinh nào dám chất
vấn thầy cô liền bị mang nhãn hiệu là "vô lễ" hay "hỗn hào" và có thể
bị trù dập! Hậu quả của lối giáo dục thụ động và
một chiều này là nó tạo ra một thế hệ học sinh học vẹt, lười suy nghĩ, thiếu
chủ động, kém tưởng tượng, những kiến thức hoặc sai hoặc lạc hậu, và đầu óc
mụ mị vì bị nhồi nhét quá nhiều.
Thêm vào đó là một cơ chế thi cử quá căng thẳng trong suốt thời gian ở trung
học. Hết thi lên lớp lại thi tốt nghiệp phổ thông
trung học; và hết thi phổ thông trung học lại phải thi tuyển vào đại học.
Thi cử đáng lẽ là một cơ chế để kiểm tra trình độ
và kiến thức của học sinh, nhưng nhìn qua các câu hỏi trong các kỳ
thi cử ở Việt Nam, người ta phải nói đó là những kỳ thi đố, thi mẹo.
Mà mỗi lần thi là mỗi lần cả nước không yên. Tôi không biết là thi đình, thi
hội ngày xưa có gây ra hoang mang trong xã hội như hiện nay hay không, nhưng
qua theo dõi trên báo chí, cứ mỗi lần thi là mỗi lần lộ ra nhiều hiện tượng
tiêu cực như thi dùm, thi mướn, tráo trở bài thi,
đút lót, v.v. Những hiện tượng tiêu cực này đã có từ thời trước 1975 và
có thể xa xưa hơn nữa, ấy thế mà nay vẫn còn phổ biến! Có một nhà
giáo dục trong nước đã than rằng không biết có nước nào trên thế giới lại có
một thị trường mua bán chữ nghĩa tồi tệ như ở Việt Nam.
Thêm vào đó là những quy luật kỳ quặc trong thi cử và chấm thi mà người
ngoài mới đọc qua khó mà tin ở mắt mình (3).
Phương pháp dạy và học thụ động, độc thoại cộng với chế độ thi cử cứ theo
đuổi dai dẳng người học sinh từ trung học lên đại
học, tạo cho họ một thế yếu rõ nét trong cạnh tranh với bạn bè ở các nước có
nền giáo dục tiên tiến. Thực vậy, một điều mà tôi (và nhiều bạn bè. đồng
nghiệp) thường nhận xét là sinh viên Việt Nam ta nói riêng [và Á châu nói
chung] thường rất khá trong những năm đầu ở bậc đại học, những năm
chỉ cần giải quyết những vấn đề căn bản, nằm trong khuôn khổ, công
thức; nhưng khi đến những năm cuối đại học và nhất là sau đại học, tức là
một giai đoạn học tập mà trong đó đòi hỏi sự sáng tạo và độc
lập trong nghiên cứu, thì sinh viên Việt Nam ta lại rất kém so với
sinh viên người Tây phương. Tôi vẫn còn nhớ lúc
mới vào học chương trình Thạc sĩ ở Úc, một ông
giáo sư ra đề cho chúng tôi làm nghiên cứu chỉ vỏn
vẹn 5 hàng chữ. Trong khi tôi còn đang bỡ ngỡ, chưa biết làm gì, làm ra sao,
và bắt đầu từ đâu, thì bạn đồng môn của tôi đã chủ
động vào thư viện, bấm máy computer, gọi điện đến các chỗ ngoài
trường để tìm tài liệu. Qua "bài học" này, tôi mới thấm thía sự chủ động của
người học sinh. Có lẽ vì đã được huấn luyện về nghiên cứu và được khuyến
khích độc lập từ nhỏ, sinh viên tốt nghiệp từ các trường Tây phương, khi
"ném" vào tình thế nào, họ đều có thể tự khẳng định mình, và có thể xoay sở
vươn lên tối đa. Ngày nay, nhìn sự tự tin của các
em sinh viên gốc Việt được sinh ra, lớn lên, và huấn luyện trong các trường
đại học ở nước ngoài, tôi tự thấy mình ngày xưa quả là "khờ khạo lắm, [và]
ngu ngơ quá"!
Có người cho rằng phương pháp giáo dục ở Việt Nam ngày nay [và cả ngày xưa]
là do ảnh hưởng từ phương pháp giáo dục của Pháp.
Tôi nghi ngờ điều này. Tôi thấy ở Pháp cũng như ở nhiều nước
Âu châu khác như Anh,
Thụy Sĩ, Hòa Lan, người ta rất đặt nặng vào việc phát triển kỹ năng giải
quyết vấn đề thực tế, chứ không chú trọng vào việc
nhồi nhét một số kỹ năng chật hẹp (như học toán chẳng hạn) như
ta. Họ (người Tây phương) cũng không đặt nặng vào việc học thuộc lòng
như vẹt, mà cần người học sinh phải nắm được phần cốt lõi của vấn đề, và
khuyến khích thái độ cật vấn thầy cô một cách bình đẳng.
Tôi nghĩ rằng lối giáo dục mà Việt Nam đã và đang áp dụng là đặc tính của
…Việt Nam. Người Việt chúng ta thường hay rất tự hào và lấy làm hãnh diện
khi hơn ai một điều gì đó dù rất nhỏ (có thể là một
vài câu văn, chữ nghĩa, một mẹo về giải toán, v.v…), giống như những ông
Trạng Quỳnh, Trạng Lợn
ngày xưa lấy việc hơn thua với sứ Tàu qua vài câu thơ hay bắt bẻ
vài câu văn để làm vui, để chứng tỏ ta đây là thông minh hơn người. Có thể
lấy cách dạy môn toán ra làm ví dụ ở đây: học sinh chỉ học một số công thức,
một số "bài tủ" để đối phó với những bài tập tuy căn bản, nhưng mang tính
mẹo vặt, tiểu xảo. Học sinh nào mà không may dở môn toán thường được xem là
"ngu như trâu/bò" hay "đần như lợn/heo"! Một lối suy nghĩ cực kỳ nhỏ mọn và
tầm thường. Ai cũng biết là việc giải các bài tập toán như thế chẳng giúp gì
mấy trong công việc của mình sau này (kể cả những người làm toán). Việc giải
quyết các bài toán thực tiễn không thể thực hiện bằng các mẹo giải bài tập
học sinh mà phải dùng các phương trình tính toán chuyên môn. Muốn sử dụng
những phương trình này, học sinh cần phải nắm vững bản chất các khái niệm
toán học, tức là phải học lý thuyết một cách nghiêm túc. Cái cách học vẹt
một vài công thức máy móc này chỉ phục vụ cho giải
bài tập, nhưng nó lại vô tình đã tạo ra một thế hệ học sinh sợ toán, ghét
toán, hay mệt mỏi vì toán…
Ðội ngũ giảng dạy: trình độ thấp và lão hóa
Hiện nay trên toàn quốc có khoảng 22,500
giảng viên trong các trường đại học công và dân lập; trong số
này chỉ có 3,300 (hay 15%) có trình độ tiến sĩ hay phó tiến sĩ cũ, và
2,240 (hay 10%) có trình độ thạc sĩ (ngày xưa gọi
là "cao học"). Như vậy, 75% đội ngũ giảng dạy đại học chỉ có trình độ cử
nhân. Nói cách khác, trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu
là đại học dạy đại học. Thật ra, tình trạng này
còn đáng quan ngại hơn nếu ta nhìn con số giảng viên có học hàm giáo sư hay
phó giáo sư chỉ 7%, và phần đông họ đang ở trong độ tuổi 60-65. Nói một cách
khác, đội ngũ giảng dạy đại học ta không những ít,
có trình độ thấp, mà còn lâm vào tình trạng lão hóa.
Ðể đối phó với tình trạng này, nhiều trường đại học trong nước đã được phép
tổ chức đào tạo sau đại học nhằm cung cấp lực lượng giảng dạy cho đại học.
Theo như một thống kê gần đây, trong vòng 22 năm qua,
kể từ khi có quyết định chương trình đào tạo sau đại học, Việt Nam đã
đào tạo được 4,278 tiến sĩ và phó tiến sĩ cũ, và 9,553 thạc sĩ (tức cao
học). Tính ra, trung bình mỗi năm Việt Nam chỉ đào tạo khoảng 630 người, một
con số rất ư là khiêm tốn, có khi còn thấp hơn con số của một trường lớn ở
các nước phương Tây.
Số lượng tiến sĩ và thạc sĩ được đào tạo đã tăng khá nhiều trong thời gian
gần đây. Chỉ trong vòng khoảng 10 năm qua, số
lượng tiến sĩ và thạc sĩ đào tạo ở Việt Nam đã tăng gấp 5 lần, một con số
làm nhiều người rất kinh ngạc. Tuy nhiên, ngoài
nhiều trường hợp mà sinh viên được đào tạo sau đạt tiêu chuẩn, cũng có nhiều
vấn đề về chất lượng. Có vài luận án tiến sĩ mà khi đánh giá nghiêm túc chỉ
xứng đáng trình độ thạc sĩ. Do đó, nhiều tiến sĩ
được đào tạo chưa xứng đáng với một học lực thâm thúy và một trình độ "cao",
chưa là nhà khoa học chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, trong vài trường hợp,
nghiên cứu sinh tiến sĩ là các quan chức trong
chính quyền hay Ðảng; họ chẳng cần học hay nghiên cứu gì cả, mà cuối cùng
vẫn có văn bằng tiến sĩ! Trong một hội nghị tổng kết tình hình giáo dục hậu
đại học, bộ trưởng giáo dục và đào tạo Nguyễn Minh Hiển cũng thừa nhận: "Quy
mô đào tạo phát triển nhanh, nhưng các điều kiện để đảm bảo
về chất lượng chưa phát triển kịp nên đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo."
Cần phải cải cách nền giáo dục ngay từ bây
giờ
Giáo dục đã, đang, và sẽ là một chỉ tiêu
quyết định sự khác biệt giữa các quốc gia, và giữa cá nhân. Ba chức năng
chính của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực có trình độ chuyên
môn cao, và nuôi dưỡng nhân tài. Hiện nay, nền giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam chỉ mới làm được chức năng số một, còn hai
chức năng sau thì còn rất hạn chế. Việt Nam là một nước tương đối "trẻ", vì
hơn 50% dân số dưới 25 tuổi. Nền giáo dục phải làm
sao trang bị cho lực lượng lao động này những kiến thức chuyên môn cần
thiết để tạo ra một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao, để có cơ sánh
vai với các nước tiên tiến trong vùng và trên thế
giới.
Trong một nền kinh tế toàn cầu có tính cạnh tranh cao trong Thế kỷ 21, trí
tuệ là một nguồn nội lực cực kỳ quan trọng. Vì
thế, ngày nay, người ta thường hay nói nhiều đến một cuộc chạy đua về tri
thức, bởi vì nước nào không huy động được nguồn nội lực trí tuệ, nước đó sẽ
bị lệ thuộc vào trí tuệ của người khác và lại rơi
vào tình trạng tụt hậu, nô lệ tri thức.
Các nước Tây phương, mà đặc biệt là Mỹ đang dẫn đầu cuộc chạy đua về tri
thức này. Các nước Tây phương đã sớm nhận ra vai trò của giáo dục và đào tạo
trong nền kinh tế và đã dày công xây dựng hệ thống
giáo dục đại học từ mấy trăm năm qua. Và cho đến nay, mặc dù. đã đạt được
một vị thế hàng đầu, họ vẫn không ngừng tìm cách
phát triển giáo dục đại học. Nhưng khác với các nước đang phát triển nhìn
giáo dục như là một đòn bẩy phát triển kinh tế và xã hội, họ thấy giáo dục
là một phương tiện chiến lược để duy trì sự thống
trị của họ trên trường quốc tế. Ðối với các nước này, nhất là Mỹ, sau cuộc
khủng hoảng dầu hỏa và sự cạnh tranh công nghiệp
gay gắt tiếp theo đó, các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế đã nhận ra rằng
họ đang bị mất dần sự độc quyền về công nghiệp nặng và kỹ nghệ xe hơi; do
đó, muốn duy trì uy thế tối cao của họ trước đây,
họ cần phải nắm độc quyền những "kỹ nghệ tri thức" (knowledge-based
industries) như kỹ nghệ máy tính, điện tử, không gian, thông tin viễn liên,
và công nghệ sinh học. Những kỹ nghệ này đặt trọng tâm vào nguồn vốn trí
tuệ, mà đại học là nguồn cung cấp chính. Ðại học, từđó, trở thành một bộ
phận của guồng máy kinh tế mà trước đây họ chưa bao giờ nghĩ tới.
Còn ở nước ta, đại học chưa thể là nơi kinh doanh được, vì nhiệm vụ hàng đầu
của họ là phải đào tạo nhân lực cho nền kinh tế
nước nhà và nâng cao trình độ dân trí. Mặc dù. đã có nhiều tiến bộ, nhưng
nói chung, trình độ dân trí của nước ta còn rất thấp so với các nước đã phát
triển trên thế giới và một số nước đang phát triển trong vùng. Do đó, để
tránh tình trạng bị nô lệ về tri thức, Việt Nam cần phải có một chiến lược
giáo dục khả thi nhằm trang bị những tri thức hiện đại và nâng cao trình độ
học vấn của dân chúng để Việt Nam có thể chuẩn bị
cho công cuộc công nghiệp hóa trong vòng vài thập niên tới. Thiết nghĩ
không có cách gì khác là Việt Nam phải, dùng chữ của một nhà giáo
trong nước, "chấn hưng toàn diện, cải cách mạnh
mẽ, hiện đại hóa" nền giáo dục.
Những điều mà tôi nêu ra chẳng phải là mới vì thực ra, đã có vài nhà giáo
dục tâm huyết ở trong nước cũng đã lát đát lên tiếng khuyến cáo, đòi cải
cách giáo dục hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp trong vài năm qua. Tuy nhiên,
điều đáng lo ngại là dù có khuyến cáo như thế, Bộ Giáo dục và Ðào tạo vẫn
chưa có kế hoạch gì cụ thể để đối phó với thực
trạng này. Ngược lại, còn có viên chức từ Bộ tuyên bố đại khái là nền giáo
dục Việt Nam đã được quản lý tốt, và chế độ thi cử như hiện nay là "ưu việt
rồi"! Thật là kỳ quặc.
Nếu Việt Nam cứ thích tự khen mình (chả biết mình tài giỏi cỡ nào, nhưng lại
tự khen quá dễ dàng), thì hậu quả chỉ là một sự
tụt hậu so với các nước trong vùng và thế giới bên ngoài. (Cũng giống như
anh chàng Narcisse đẹp trai suốt ngày chỉ đắm đuối nhìn ngắm dung nhan mình
trong hồ nước, để rồi cuối cùng cũng chết mòn mỏi và khô héo bên cạnh hồ
nước ấy!)
Nhìn qua sự phát triển kinh tế ở các nước trong vùng như Nam Hàn, Ðài Loan,
và Tân Gia Ba cho ta thấy cái mẩu số chung là họ
đã chú trọng vào giáo dục và đào tạo. Không có lý do gì Việt Nam không coi
trọng giáo dục, nhất là ta lại thường tự hào là một nước với hơn "bốn
ngàn năm văn hiến". Ấy thế mà đầu tư vào giáo dục
ở Việt Nam thuộc vào hàng thấp nhất trong vùng. Theo thống kê, ngân sách
dành cho giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đầu khoảng 11%, chỉ bằng phân nửa
Ðại Hàn (22%) hay gần phân nửa Thái Lan (21%), và
thấp hơn Mã Lai Á (19%), thậm chí thấp hơn cả Trung Quốc (12%). Tôi nghĩ vì
hoàn cảnh thực tế và các nhu cầu cấp thiết khác trong nước, Việt Nam không
thể có ngân sách giáo dục dồi dào như các nước Ðại Hàn hay Singapore, nhưng
thiết nghĩ một ngân sách khoảng 15% không phải là một
điều quá xa xỉ. Nếu cần, ngân sách có thể được tăng từng nấc một
(khoảng 1% mỗi năm) trong nhiều năm để đạt tới
tiêu chuẩn 20% cho tới năm 2020. Tất nhiên, tăng ngân sách sẽ không giải
quyết triệt để được vấn đề chất lượng, vì nó còn tùy thuộc vào các yếu tố
khác như tổ chức. Vì thế, song song với việc tăng ngân sách, Nhà nước cần
phải có chiến lược để quy hoạch lại hệ thống trường đại học và dạy nghề cũng
như thi cử sao cho việc tăng ngân sách giáo dục sẽ đem lại những kết quả tối
ưu.
Tôi tin rằng những ai hằng quan tâm đến giáo dục đều thấy những điều mà tôi
cho là nguyên nhân cho sự suy đồi về chất lượng đào tạo đại học hiện nay ở
trong nước là cực kỳ nghiêm trọng. Ở các nước Tây phương, những vấn đề này
được coi là một sự khủng hoảng. Ở Việt Nam, có thể nói một cách ngắn gọn
và dứt khoát rằng: thực trạng giáo dục là một trong những vấn đề lớn
nhất, nghiêm trọng nhất của xã hội hiện nay. Trong khi trên thế giới người
ta không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống giáo dục, ở nước
ta hệ thống giáo dục vừa lạc hậu, vừa cổ lỗ mà vẫn dẫm chân tại chỗ,
vẫn thản nhiên bình chân như vại! Không có vấn đề gì đáng lo lắng hơn cho
tương lai của đất nước khi một nền giáo dục như thế lại được
duy trì hết thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, cải cách giáo dục đại
học, hơn bao giờ hết, đang là nhu cầu sống còn trên bước đường phát triển
đất nước.
Ghi chú:
(1) International Mathematical Olympiad Competition (Thi vô địch toán quốc
tế), như tên gọi ám chỉ, là một kỳ thi toán hàng
năm dành cho cho học sinh trung học, không quá 20 tuổi. Nói nôm na, đây là
một kỳ thi đấu "thể thao trí tuệ". Kể từ năm 1959,
hàng năm có khoảng 260 nước gửi phái đoàn học sinh tham
dự. Mỗi phái đoàn chỉ có tối đa khoảng 8 học sinh. Việt Nam bắt đầu
tham dự từ năm 1974. Mỗi kỳ thi được tổ chức trong
vòng 2 ngày; mỗi ngày làm 3 bài toán. Các nước thường dẫn đầu trong các kỳ
thi này là Nga, Mỹ, Ðức, Hungary, Việt Nam,
Romania, Pháp, Anh, và gần đây là Trung Quốc.
(2) Ðó là chưa kể những trường "đại học tại chức" đã và đang mọc lên như nấm
hiện nay ở nhiều tỉnh lỵ, huyện, và cả làng xã. Có vài làng ở Nam Ðịnh và
Nghệ An thậm chí có cả hai trường đại học tại chức! Số lượng các "trường"
này nhiều đến nỗi Bộ Giáo dục và Ðào tạo không còn
kiểm soát nổi hoạt động của họ.
Tất nhiên, đại đa số những trường này không được nhà nước công nhận, nhưng
họ vẫn hoạt động, vì có nhu cầu. Hiện nay, đã có hơn 300 ngàn sinh viên theo
học dưới hình thức tại chức như thế. Một con số chưa từng có trong lịch sử
giáo dục ở nước ta! Tình trạng này đã làm cho các cơ quan quản lý như Bộ
Giáo dục và Ðào tạo vào thế bị động, lúng túng. Trong một bài báo
trên Nhân Dân Ðiện Tử mới đây của ông Phan Huy Hiền, sự gia tăng nhanh chóng
số lượng học sinh từ xa và tại chức đã đến mức độ mà "Bộ Giáo dục và Ðào tạo
không còn kiểm soát nổi chỉ tiêu tuyển sinh cũng như chất lượng đào tạo ở
các lớp tại chức do các trường đại học mở."
(3) Về vấn đề quy định trong việc "phúc khảo" (tức là chấm lại bài thi), một
nhà giáo uy tín trong nước (Giáo sư Văn Như Cương)
đã phàn nàn trong bài "Bàn về giáo dục" trên Tạp chí Tia Sáng như sau:
"Muốn được phúc khảo thí sinh phải có điểm tổng kết môn cao hơn điểm thi ít
ra là hai điểm (có nghĩa là nếu tôi thi được 5 điểm và điểm tổng kết môn học
chỉ có 6 điểm thì tôi không được đòi chấm lại). Như
vậy là không đúng, không hợp lý. Tôi khiếu kiện vì tôi bị oan ức;
người ta đã chấm sai bài thi của tôi, đáng ra tôi
phải được 10. Bởi vậy, tôi đề nghị chấm lại cho đúng cái bài thi ấy, tại sao
lại ngoặc điểm tổng kết vào đây? Trong khi đó bạn của tôi thi đạt 9, mà tổng
kết môn chỉ có 2 điểm thì không thấy đưa ra xem xét lại, mà vẫn được chấp
nhận.
Sau khi đã phúc khảo, thì điểm chấm phải cao hơn điểm đã có trước ít nhất là
2 điểm mới được thừa nhận (có nghĩa là nếu trước
kia tôi được 4 điểm, nay chấm lại được 5,5 điểm thì vẫn buộc phải nhận 4
điểm như cũ, trong khi đó tôi chỉ cần 0,5 điểm là
từ chỗ trượt trở thành đậu. Ai cũng thấy điều đó quả là kỳ lạ! Tôi đã khiếu
kiện và tôi đã thắng, bài của tôi đúng là được 5,5 chứ không phải là 4. Thế
mà rốt cuộc tôi vẫn bị 4 điểm, tức là thua kiện!
Tôi cho rằng một đầu óc bình thường không thể nghĩ ra được một điều luật
quái gở đến như thế! Thế mà nó vẫn cứ tồn tại hàng
bao nhiêu năm nay." Thật là khó tin!
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences. org Nguyễn Văn Tuấn
|