Trước tiên xin cám ơn Báo Tiền Phong đã đăng bài
“Không tăng học phí mà phải giảm” Số 160&161 ngày
9-6-2009 và
10/6/2009 – vấn đề cả xã hội đang quan
tâm, và ông Bùi Hồng Quang-Vụ phó Vụ Kế hoạch Tài chính Bộ GD&ĐT đã đọc
kỹ và có
ý kiến phản hồi. Các ý kiến của ông
Quang tập trung vào thắc mắc nguồn gốc các số liệu sử dụng trong bài
báo, cụ thể là số liệu đầu tư của nhà nước và tỷ lệ đóng góp của người
dân, con số lãng phí hàng tỷ USD khi làm CT-SGK, lợi ích của việc thông
qua đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đối với người nghèo, hiệu
quả đầu tư cho việc phát triển giáo dục đại học. Có thể nói một cách vắn
tắt là số liệu đăng trên báo đều do tôi và các chuyên gia trong nhóm
nghiên cứu độc lập (do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phụ trách) tính toán dựa
vào thực tiễn và cơ sở khoa học, đã được công bố trên công luận, có địa
chỉ rõ ràng để tiện kiểm tra.
1/ Đầu tháng 10 năm 2007 tôi nhận được thư, đề
ngày ngày 02 tháng 10 năm 2007,
của GS.TS Nguyễn Thiện Nhân – Bộ trưởng
Bộ GD-ĐT mời tôi tham gia nhóm nghiên cứu độc lập về học phí, trong thư
thông báo “nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận lời phụ trách chung nhóm
nghiên cứu này”. Nhóm có 12 thành viên, bao gồm các Bộ trưởng, Chủ nhiệm
UB của Quốc hội, một số cán bộ đã từng lãnh đạo ngành và một số nhà
giáo, nhà khoa học hiện đang công tác, trong đó có tôi. Theo ghi chú thì
nội dung lá thư này cũng được gửi cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, đồng
chí Tổng Bí thư ĐCSVN, Thủ tướng, các phó Thủ tướng, Ban tuyên giáo TƯ
để báo cáo. Đồng chí Võ Văn Kiệt mời thêm các chuyên gia hàng đầu am
hiểu về giáo dục trong ngoài nước cùng tham gia. Dựa trên các tài liệu
thu thập được và tài liệu do Bộ GD-ĐT cung cấp, chúng tôi tiến hành điều
tra thực tiễn, tính toán lại những số liệu chính thức của Bộ giáo dục,
kết hợp với việc so sánh đối chiếu với các nước để có các con số cụ thể.
Mặc dù nhóm nghiên cứu không được cấp kinh phí, không có Văn phòng và
phương tiện đi lại, song chúng tôi vẫn làm việc, qua mạng chúng tôi vẫn
trao đổi thông tin, so sánh kết quả với nhau. Vào nhóm nghiên cứu là do
có thư mời, nhưng nghiên cứu thế nào, kết quả ra sao, Bộ không hỏi đến.
Vậy thành quả thu được do hàng chục chuyên gia lao động vất vả nên bỏ đi
hay công bố để mọi người tham khảo? GS Phạm Minh Hạc-nguyên Bộ trưởng Bộ
GD – một thành viên trong nhóm nghiên cứu này cũng băn khoăn chẳng hiểu
nhóm đã thực sự được Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân vận hành chính thức
hoặc được giải tán hay chưa?
2/ Các số liệu (50%, 9,2% GDP, 10.600 tỷ đồng đi
đâu?, lương cán bộ là 9-12 triệu đồng/người/tháng) đã công bố:
+ Mức đóng góp của dân vào tổng chi phí giáo dục nước
ta là 50%, cao nhất thế giới, được viết dưới dạng Thư ngỏ của một
công dân gửi Quốc hội với nhan đề “4 tỷ USD cho giáo dục và 100
triệu USD doanh thu của Nhà xuất bản Giáo dục được tính như thế nào?”
đăng trên Báo Người Đại Biểu Nhân Dân số 161(370) ngày 22-11-2004. Trong
bài báo đó chúng tôi đã trình bày 3 cách tính khác nhau để tìm ra con số
4 tỷ USD. Dựa vào Báo cáo của Bộ, chúng tôi kiểm tra lại quỹ lương. Có
sự chênh lệch lớn giữa quỹ lương mà ngân sách bố trí và con số chi lương
theo báo cáo của ngành,(khoảng 61,60% so với từ 85%-90%?) cụ thể năm
2006 là 10.600 tỷ đồng-một con số khổng lồ, chứ không phải
1060 tỷ đồng (cám ơn ông Quang giúp tôi chính xác lại con số). Con số
này cũng đã được công bố trong bài “
Hơn 10.000 tỷ đồng ngân sách cho Giáo
dục-đào tạo đi đâu? Đăng trên Báo Tiền Phong ngày
20/10/2007[1];
và ở bài viết :
Một số câu hỏi quanh bản Báo cáo “Giáo dục
Việt Nam-Đầu tư và cơ cấu tài chính” của Bộ GD-ĐT,
Báo Tuổi Trẻ ngày 22/11/2007[2].
Bài này đã được nhóm chuyên gia Đại học Harvard sử dụng trong tài liệu “Lựa
chọn thành công” trình Thủ tướng, tháng 1/2008, trang 16.
+ Các con số 9,2 % GDP, lương trung bình cán bộ của
hai ĐHQG Hà Nội và TPHCM là 9-12 triệu đồng/người/ tháng, đề nghị xem
bài “Phát
triển giáo dục: Vai trò học phí, trách nhiệm của nhà nước và khả năng
chi trả của người dân” Thời đại mới-Tạp Chi Nghiên
cứu & Thảo luận, số 13, tháng 3/2008[3]của
TS Vũ Quang Việt –người thuộc nhóm nghiên cứu về học phí của chúng tôi.
3/ Lãng phí hàng tỷ USD cho biên soạn chương trình
và sách.
Chương trình giáo dục ổn định, thời gian SGK được
dùng tại hầu hết các nước trên thế giới đều có chế tài ít nhất từ 10 đến
15 năm mới được thay một lần. Thông tin này đã được xác nhận tại diễn
đàn Quốc hội ngày 12-6-2009. Vậy chúng tôi tính thiệt hại về kinh tế
trong một năm, nhân con số này với 10 hay 15 năm sẽ được con số hàng tỷ
USD.
Tại phiên họp Chính phủ tháng 7/2001, Thủ tướng
Phan Văn Khải đã phải chỉ thị “…chấm dứt ngay việc năm nào cũng in lại
SGK (Thế Giới Mới, số 449, ngày 13/8/2001). Kiểm chứng việc thực hiện
chỉ thị này, xin dẫn môn tiếng Việt lớp 1 làm ví dụ. Năm 2002, năm bắt
đầu thay sách, NXBGD in 1,7 triệu cuốn ( 2 tập giá 19 600 đ/bộ) thành
tiền 33,32 tỷ đồng/môn. Tựa sách này năm nào cũng tái bản, năm 2008 ,
NXBGD in lại, 1,53 triệu cuốn (2 tập giá 21 400 đ/bộ) thành tiền là
32.742 tỷ đồng (khoảng 2 triệu USD ). Vậy từ 2002 đến 2008, riêng môn
tiếng Việt NXBGD thu của dân khoảng 230 tỷ đồng/môn (xấp xỉ 14 triệu
USD/môn) mà không phải đầu tư gì nhiều. Ở bậc phổ thông có khoảng 200
tựa sách như vậy. Ngoài SGK, còn sách tham khảo.Theo số liệu Công ty
Phát hành sách Hà Nội năm 2008, có 3.120 sách tham khảo cho tất cả HS
phổ thông: Lớp 1 có 59 cuốn, lớp 2 (85c); Lớp 3 (109c); Lớp 4 (147c);
Lớp 5 (180c); Lớp 6 (202c); Lớp7 (199c); Lớp 8 (288c); Lớp 9 (357c); Lớp
10 (394c); Lớp 11 (442c); Lớp 12 (148c). Giá sách tham khảo thường cao
từ 5 đến 10 lần giá SGK,
So với các nước, chương trình giáo dục của ta quá
nặng, nhiều nội dung trong SGK nặng hơn từ 1 đến 3 năm, cách trình bầy
không liền mạch, ngôn ngữ trừu tượng xa cuộc sống, khó học, khó nhớ. HS
phải học thêm ngay từ lớp 1, các em bị mất tuổi thơ. Số tiền học thêm
theo số liệu điều tra của Việt Nam với các tổ chức Quốc tế là rất lớn
(khoảng 300 triệu USD/năm) (Tuổi trẻ TPHCM, 16/12/2004).
Tiền chi của Nhà nước cho đợt đổi mới chương trình và
thay sách từ năm 2002 đến nay, dự kiến là 32.000 tỷ đồng – khoảng 2 tỷ
USD (Tuổi Trẻ TPHCM 28-7-2001, và tư liệu của Quốc hội).
Vậy tổng số tiền Nhà nước, tiền mua sách và tiền học
thêm mà dân phải bỏ ra, trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 năm, ai tính
sơ cũng thấy là con số lên đến hàng tỉ USD. Thiệt hại về kinh tế ai cũng
có thể nhẩm tính được, trừ Vụ Kế hoạch Tài chính Bộ GD-ĐT. Điều đáng nói
hơn là hàng chục thế hệ HS với kiến thức méo mó không chuẩn vào đời,
liệu có tính được không?
4/ Vậy Ai chỉ đạo ?
Trong những năm chiến tranh và khó khăn, người có
bằng cấp chỉ đếm trên đầu ngón tay mà vẫn tự làm được CT-SGK có chất
lượng và ổn định hàng chục năm từ phổ thông đến đại học.
Hiện nay số người có học hàm học vị đến con hàng vạn
mà không làm được những việc mà cha anh trước đây đã làm. Chương
trình-SGK phổ thông được chỉ đạo theo tư duy “cắt khúc cuốn chiếu”, càng
làm càng rối, càng sai. Vậy Ai là người chỉ đạo? Chỉ xin nêu một ví dụ
cụ thể, công văn số 10329/VP do thứ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo ký
ngày 10/11/2000, triệu tập các tác giả VN biên soạn sách giáo khoa và
sách giáo viên đến để người nước ngoài tập huấn! Còn chương trình – sách
ở bậc đại học gần 20 năm được chỉ đạo sao chép chương trình của ĐH Thái
Lan, không xong, nay lại vay hàng triệu USD để nhập khẩu chương trình từ
nước ngoài. Chương trình giáo dục và sách giáo khoa rõ ràng vẫn là một
thách thức lớn và vẫn chưa tìm được lối ra.
Ngày 28-10 năm 2008 tại cuộc họp lớn của Quốc gia (do
đồng chí Trương Tấn Sang chủ trì tại VP TƯ Đảng) tôi đã công bố tính
toán cụ thể về in ấn sách môn tiếng Việt làm ví dụ. Thật may mắn tôi
được phép trao đổi thẳng thắn với Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân. “Kính
thưa GS, tôi và GS đều được đào tạo ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp phổ
thông, GS học ở Đức, còn tôi học ở Liên Xô.Chúng ta cùng học với SV các
nước, đặc biệt cùng với các SV của các nước khó khăn từ châu Á, Phi, Mỹ
La Tinh, theo cùng một trình độ. Rõ ràng, nước nào cũng làm được chương
trình và SGK chuẩn của mình. Về góc độ khoa học, xin phép được hỏi GS về
cách làm, các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh làm chương trình và SGK chuẩn như
thế nào? Và họ làm được, còn ta suốt 27 năm nay tốn hàng tỷ USD lại
không làm được? Câu trả lời rất tiếc vẫn chưa tìm ra (!?)
Giải quyết vấn đề chương trình và sách không khó.
Hiện nay chúng ta đang đi ngược tư duy khoa học. Theo như GS Hoàng Tụy,
giáo dục nước ta có 3 “cục bướu” cần cắt bỏ là học thêm, thi cử và SGK …
“cục bướu” lớn nhất chính là SGK, nó chi phối hầu hết lãng phí trong
giáo dục. Để giải quyết tận gốc vấn đề, cần sớm có khung CT-SGK chuẩn
như các nước tiên tiến đã làm được. Nếu phát huy nội lực, loại bỏ tư
tưởng sính ngoại, có giải pháp mới cho CT-SGK chuẩn phù hợp với VN, hội
nhập với thế giới theo các chuẩn mực quốc tế, chúng ta có thể hoàn thành
việc biên soạn trong vòng 1 năm với kinh phí 100 tỉ đồng, và có thể thay
đồng loạt CT-SGK mới từ lớp 1 đến lớp 12. Giải pháp này đã được nhiều
nhà khoa học khẳng định hàng chục năm nay và Đại trướng Võ Nguyên Giáp
nhắc nhở phải thảo luận sáng kiến này trong bài “ Đổi mới có tính cách
mạng nền giáo dục đào tạo của nước nhà”( Nhân Dân, ngày 10-9-2007). Mặc
dù, tính hiệu quả và khả thi của giải pháp này làm tập trung triền khai
đồng bộ, không còn bất cứ phản bác nào kể cả lãnh đạo Bộ GD-ĐT, nhưng
vẫn không được phép triển khai (!?). Kéo dài cách làm lạc hậu hiện nay,
thật bất lợi cho sự nghiệp trồng người và gây thiệt hại lớn cho nhân
dân. (!?) (Văn Nghệ Trẻ , số 17+18 (651,652) ra ngày 26-4-2009 )
5/ Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục khẳng
định:
sẽ tạo thêm
cơ hội cho HS nghèo miễn giảm học phí và hưởng lợi
hơn trước đây
[4] (Báo Tuổi Trẻ ngày 31-5-2009).
Chưa bàn cách thu học phí trong đề án chẳng giống Ai,
dựa vào thực tế, ĐB Quốc hội Đặng Như Lợi (Cà Mau) đã tính toán lại và
tìm ra kết quả, ngược lại với dự tính, số người được miễn giảm lại thấp
đi so với trước “Số người được miễn giảm từ 44% xuống còn 25% ở miền
núi, 15% ở nông thôn và 10% ở thành thị là không ổn[5]”
(Tuổi
trẻ TPHCM 10-6-2009).
Trong khi đó, Đề án này lại “quên” báo cáo Quốc hội
một điều cơ bản là định mức chi ngân sách cho các trường ở phổ thông
(được tính theo số dân địa phương) tăng rất ít trong suốt thời gian qua.
Lẽ ra, khi ngân sách giáo dục tăng đều hàng năm với giá trị tuyệt đối
rất lớn và trong khi số dân tăng với tỷ lệ thấp, thì định mức này phải
tăng đáng kể mỗi năm. Nhưng thực tế, số tiền ngân sách các trường nhận
được lại thường giữ ổn định theo chu kỳ cấp ngân sách 3 năm. Số tiền
chênh lệch này nằm ở đâu, nếu làm rõ chắc chắn sẽ không cần tăng học
phí.
6/ Về hiệu quả đầu tư?
Các trường được bung ra, ồ ạt, tự phát tràn lan, làm
cho cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối, thầy nhiều hơn thợ, chất lượng
thấp và thật lãng phí. Số liệu về tỷ lệ học sinh không có việc làm của
tôi trích dẫn theo Báo Sài gòn Giải phóng: “Theo thống kê mới đây của Bộ
GD-ĐT thì có tới 63% số cử nhân, kỹ sư sau khi tốt nghiệp ra trường bị
thất nghiệp, chỉ có 37% tìm được việc làm là con số gây bất ngờ, xót xa
cho tất cả mọi người, kể cả những người bàng quan nhất. Vì người có học
vị đại học và tiền đã bị lãng phí…Hiện nay, hầu hết các Công ty khi nhận
SV ra trường vào làm phải mất thời gian đào tạo lại 1-2 năm, thật lãng
phí (Báo SGGP 29-9-2006 – có bài báo kèm theo). Báo chí đăng hiện tượng
nhiều SV ra trường không có việc làm, mang
tấm bằng ra hiệu cầm đồ để lấy 1,5
triệu đồng/ bằng ĐH, có lẽ đây là hiện tượng chưa từng thấy trong lịch
sử GD ĐH[6]
? (VietnamNet 27-10-2008). Theo ông Quang nói 96% người tốt nghiệp đại
học có việc làm, vậy số liệu của ông có đáng tin cậy?
Tăng học phí đại học sẽ làm tăng thêm món nợ vay để
học của sinh viên nghèo, cho vay để sinh viên học đại trà ra trường với
chất lượng thấp, không có việc làm để có thu nhập trả nợ sẽ là gánh nặng
cho cả người học và Nhà nước. Việc này phải vài năm nữa mới thấy, ai sẽ
chịu trách nhiệm?
Để kết thúc bài này, xin dẫn thêm một số liệu về
hiệu quả đầu tư, nếu 63% SV ra trường thất nghiệp làm ví dụ. Năm học
2006-2007 có 161. 411 SV tốt nghiệp, mỗi tấm bằng ĐH người dân phải bỏ
ra 40 triệu đồng/ sv, Nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng / SV. Từ
những con số trên cho thấy kinh phí đầu tư kém hiệu quả trong năm học
2006-2007 sẽ là (161.411SV x 63% x 70 triệu đồng= 7.117 tỷ đồng), trong
đó 4.067 tỷ đồng của dân, còn 3.050 tỷ đồng là của nhà nước)[7].
(Bài “Chất
lượng nguồn nhân lực quá yếu”, đã đăng trên Báo Lao Động Số
229 ngày 3/10/2007).
[1]
http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=99283&ChannellD=71
[2]
http://www.viet-studies.info/NXHan_MotSoCauHoi.htm
[3]
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai13/200813_VuQuangViet_3.htm
[4]
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=319149&ChannelID=13
[5]
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=320725&ChannelID=3
[6]
http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/10/810418/
[7]
http://www.laodong.com.vn/Home/Chat-luong-nguon-nhan-luc-qua-yeu/200710/58013.laodong