Chương trình là
cốt lõi, SGK mang tính pháp lý trong dạy và học. Vậy, vì lý do sâu
xa nào mà mặc dù có nhiều cố gắng, nhiều giải pháp nhưng đến nay
chương trình và SGK chuẩn của nước ta vẫn chưa có? Với góc độ khoa
học, tôi xin làm rõ một vài vấn đề liên quan trên công luận vì mục
tiêu: có chương trình và SGK chuẩn để sớm ổn định hoạt động giáo
dục.
Đổi mới
chương trình và thay SGK không chuẩn?
Hệ thống tri thức có bộ
phận bất biến là kiến thức cơ bản, còn vạn biến là khoa học công nghệ. Dạy
và học trong nhà trường là kiến thức cơ bản, còn ứng dụng vào cuộc sống luôn
luôn đa dạng và biến động! Do hiểu được đâu là bất biến, nên chương trình
giáo dục được ổn định, vòng đời SGK có chế tài, sử dụng ít nhất 10 năm mới
cần in lại – đó là lẽ thường.
Ngược lại, chương trình và
SGK của ta được chỉnh sửa, in lại, gây bất ổn cho giáo dục. Viện dẫn cho
việc làm nay người đưa ra lý do “ kiến thức khoa học của nhân loại chỉ cần
khoang thời gian 7 năm để tăng gấp đôi. Và thời gian ấy ngày càng thu ngắn”
làm căn cứ đổi mới chương trình và thay SGK ở bậc phổ thông, là không đủ sức
thuyết phục!
Vậy bất biến trong cuộc
cách mạng KH-KT diễn ra ở thế kỷ XX, là gì? Chính là hai lý thuyết vật lý
lượng tử và tương đối ra đời và được đưa vào nhà truờng gần 100 năm nay. Bản
chất của 4 chữ lượng tử và tương đối, có thể trình bầy rõ ràng trong một
cuốn sách nhỏ 50 trang, để HS phổ thông có thể hiểu đuợc. Các kiến thức này
vào cuộc sống, nhiều công nghệ mới ra đời. Xin ví dụ, vật lý bán dẫn là sản
phẩm của thuyết lượng tử và công nghệ. Không có vật lý bán dẫn, sẽ không có
máy tính ngày nay, và càng không thể nói tới kinh tế tri thức, và toàn cầu
hoá. Hiện tượng phân hạch hạt nhân phát hiện 1938, là cơ sở nghiên cứu nguồn
năng lượng mới-năng lượng hạt nhân ngày nay, chưa bàn đến lượng dự trữ vũ
khí hạt nhân, vẫn là nỗi ám ảnh thường trực nhân loại hơn 60 năm qua. Lấy
bất biến ứng vạn biến là lẽ thường. Còn ngược lại là không thuận (là
nghịch). Thực tiễn cho thấy, tư duy ngược, giáo dục sẽ bị xáo trộn.
Một chương
trình thống nhất, có nhiều bộ SGK?
Mỗi một quyển SGK có
một cấu trúc, cách trình bầy theo tư duy nhất quán. Số lượng các bộ SGK khác
nhau, nhưng không phải là vô hạn ? Về mặt khoa học, hai người khác nhau chưa
hẳn viết được hai cuốn SGK khác nhau.
Ví dụ, ở Nga, một chương
trình thống nhất, về Sinh học chỉ có 3 bộ SGK khác nhau: 1 bộ SGK viết theo
kiểu mô tả, 1bộ SGK viết theo tiến trình thực nghiệm, còn 1 bộ SGK viết theo
nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp.
Khi còn chế độ thi cử quốc
gia, cần có một bộ SGK chính thức của Nhà nước (phổ thông, có chất lượng, và
chuẩn mực quốc tế). Chữ phổ thông - đã quy định: kiến thức phổ thông, cách
trình bầy phổ thông, dễ học dễ nhớ.
Có ý kiến cho rằng: "Ai
muốn viết SGK cũng được, miễn là Bộ công nhận sử dụng trong trường là đuợc!
Chắc mọi nguời còn nhớ phong trào “toàn dân nấu thép, nhưng kết quả ta chỉ
thu được gang” vào cuối những năm năm mươi thế kỷ trước.
Tại sao chưa có chương trình và sách giáo khoa chuẩn?
Giáo dục đào tạo và
khoa học công nghệ là mấu chốt của tiến trình CNH&HĐH đất nước. Mà sản phẩm
của nó phải đo bằng chuẩn Quốc tế. Vậy, với lý do nào mà ta chưa làm được
CT-SGK chuẩn?
+ Trong giáo dục thế giới
tồn tại một mặt bằng chung kiến thức, các HS học lớp 5 ở nuớc này có thể
sang nước khác cũng học lớp 5 , hay HS tốt nghiệp phổ thông của nước mình
vẫn vào các nước tiên tiến như Nga, Mỹ , Đức để học đại học. Điều đó khẳng
định, chương trình giáo dục cơ bản phải giống nhau.
Việc đổi mới chuong trình
và biên soạn SGK ở nuớc ta chẳng giống ai, vẫn theo tư duy “du kích”, có
nguồn gốc từ văn hoá làng xã và cát cứ. Việc cắt khúc chương trình giáo dục
cho nhiều nguời làm sách, triển khai theo kiểu cuốn chiếu, vừa chạy vừa xếp
hàng, vô tình phá vỡ sự thống nhất trong dạy và học, lãng phí thời gian và
của cải xã hội.
Một chương trình tiếng
Việt từ lớp 1 đến lớp 12 do Hội Ngôn Ngữ TP. HCM mà GS Cao Xuân Hạo chủ trì
đã làm trong nhiều năm, và hoàn thành năm 2001, và đã được gửi tới những
người có trách nhiệm ngành giáo dục, nhưng … đã không đuợc ai trả lời”
(Tuổi trẻ 9-11-2001).
Trên thế giới tồn tại
CT-SGK Tú tài Quốc tế, được trên 70 nước chấp nhận là thành tựu của mình để
sử dụng. Tại Việt Nam chương trình này đã được GS Hồ Ngọc Đại sử dụng rất
tốt cho trường Quốc tế Hà Nội nhiều năm nay. Ông Đỗ Ngọc Thống khoe là “một
trong những tác giả SGK viết nhiều nhất môn Ngữ Văn theo chương trình mới từ
lớp 6 đến lớp 12”. Vậy hẳn ông đã đuọc các tài liệu trên trước khi biên
soạn? Mong ông sớm phát biểu những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sản
phẩm SGK của ông với CT-SGK của Tú Tài Quốc tế, và Hội Ngôn ngữ TP.HCM?
Xin thưa với ông, văn
chương là món ăn tinh thần, tôi chả thấy ai “ví văn Nguyễn Tuân là loại cao
sang với món thịt chó”!!! (Văn Nghệ Trẻ số 23 ngày 7-6-2003).
+ Việt Nam là bộ phận của
nhân loại. Vậy đâu là cái chung từ kho tàng trí tuệ của nhân loại, đâu là
cái riêng của dân tộc mình?
Ví dụ, Cuốn sách cơ sở
hình học Euclide - nội dung đã chiếm già nửa chuong trình toán ở bậc phổ
thông, được sử dụng ổn định 2.300 năm nay, là tài sản chung của nhân loại.
Cuốn sách này trong giới khoa học được ví là Kinh thánh.
Nó có 4 điều “chẳng cần”
là chẳng cần nghi ngờ, chẳng cần đắn đo suy nghĩ, chẳng cần thử, chẳng cần
sửa đổi. Có 4 điều “không được” là muốn thoát ra mà không được, muốn bác bỏ
mà không được, muốn giảm bớt mà không được, muốn xáo trộn trước sau mà không
được.
Einstein đã nói: không nắm
chắc được hình học Euclide sẽ không thể trở thành nhà khoa học. Vậy mà từ
1981 đến nay, cuốn Euclide được chia nhỏ theo kiểu “cắt khúc” cho nhiều
người làm. Nhóm nọ không biết nhóm kia. Kết quả, định lý Thales đưa xuống
phần Bài tập (Hình lớp 11, NXBGD năm 2000, trang 37 bài tập 6).Cách làm này
liệu có được coi là khoa học. Liệu có đảo ngược trí tuệ của nhân loại?
+ Người ta nói biên soạn
SGK, chứ không nói là sáng tác SGK.Chữ biên soạn - có nghĩa là thu thập tài
liệu, sắp xếp, cấu trúc lại thành sách. Các tác giả, nhiều người rất giỏi,
nhưng không được cung cấp đầy đủ các tài liệu tham khảo. Về mặt khoa học,
khi nghiên cứu, mà không biết người khác đã làm gì, thì kết quả không thể
gọi là thành phẩm khoa học. Về việc này, Uỷ ban VH-GD-TTN-NĐ của Quốc hội đã
yêu cầu lãnh đạo Bộ GD-ĐT, mang sách đến so sánh và đối chiếu. Rất tiếc,
chưa rõ lý do, mà hàng năm nay lãnh đạo Bộ chưa thấy mang sách sang.
So với các nước, chương
trình giáo dục của ta nặng hơn từ 1 đến 3 năm. Sử dụng ngôn ngữ trừu tượng,
xa với cuộc sống, thật khó cho học và dạy. Nếu chương trình giáo dục vẫn
tiếp tục sử dụng, thật bất lợi cho các thế hệ tương lai.
Vậy làm lại
CT-SGK mất bao lâu?
Việt Nam đã từng làm
chương trình và SGK ở bậc phổ thông vào năm 1945, 1955, 1975. Cách tư duy
làm sách về cơ bản là giống nhau là phân biệt rõ phần chung của nhân loại,
phần riêng của mỗi nước, và tổ chức biên soạn theo một quy trình khoa học,
chặt chẽ, sau khi thảo luận thống nhất, một người biên sọan nhưng sẽ có hàng
triệu người phản biện. Xuất phát điểm cho việc biên soạn SGK hiện nay, không
phải từ chỗ “không có gì” - cả hai miền Nam Bắc trước 1975 đã có CT-SGK ổn
định. Sai của 2 lần làm sách vào 1981 và 2002 là cái sai từ hệ thống và sai
từ gốc tư duy.
Doanh thu
của NXBGD mỗi năm là bao nhiêu?
Về in SGK, nguyên Thủ
tướng Phan Văn Khải đã chỉ thị “chấm dứt ngay năm nào cũng in lại SGK...”
(Thế Giới Mới, Số 449, ngày 13-8-2001). Vấn đề là bao giờ thì có thể! Khi mà
công việc đó gắn liền với kinh tế, kinh doanh.
- Năm 2001, tổng số xuất
bản phẩm được xuất bản và phát hành là 237,760 triệu bản, với tổng doanh thu
là 1.705 tỷ đồng. (Cục xuất bản của Bộ Văn hoá thông tin nhân kỉ niệm 50
ngành xuất bản, công bố 2003). Số lượng của NXBGD là 200 triệu bản, ( 8 tỷ
đồng tem chống in lậu, giá tem là 40đ/cái) chiếm 84,1% tổng số xuất bản của
cả nước. Làm phép tính đơn giản, doanh thu của NXBGD khoảng 1434,2 tỷ đồng,
tương đương 100 triệu USD/năm vào thời gian đó.
- Lãi thay sách một môn
như tiếng Việt, Năm 2003 cho 1,7 triệu HS vào lớp 1, NXBGD có thể thu được
là 14 tỷ đồng, xấp xỉ 1 triệu USD, chỉ là một ví dụ minh hoạ.
Môn tiếng Việt lớp 1 có 2
tập, chỉ xin ước đoán tiền lãi 1 tập, chứ chưa nói là lãi của cả hai tập là
2 triệu USD. Giá bìa cuốn sách này hiện là 9800 đ/cuốn, khi tính làm tròn
rút đi, là 9.000 đ/cuốn. (1,7 triệu HS nhân với 9.000 đ/cuốn=15,3 tỷ đồng,
theo chuyên gia tiền chi cho cuốn này cũng khoảng 1,3 tỷ đồng).
Tiền nhuận bút cho cuốn
sách này, đựơc ông Đỗ Ngọc Thống (VietnamNet 5-11-2006) dẫn ra hai cách
tính:
1/ Theo giá bìa là 10%:
128.000đ x 9.200đ x 10% = 117.760.000 đồng (một trăm mời bảy triệu bẩy trăm
sáu mươi ngàn);
2/ Theo tiết học là
350.000đ/tiết: Số tiền 162 x 350 000 đ = 56.700.000 (năm mươi sáu triệu, bẩy
trăm nghìn đồng).
Kiểm tra tính toán
này, thấy số liệu sai? Năm 2003 là năm thay sách, có 1,7 triệu HS vào lớp 1,
sao NXBGD lại in 128.000 bản? Vô lý, sự chênh lệch này tương đương hơn 1 tỷ
đồng? Vậy nó sẽ đi về đâu? mà ông Thống nói “không thể trở thành triệu phú
nhờ viết SGK”? Vậy việc in SGK có thể trở thành triệu phú?
Việc Thanh tra Chính phủ
vào cuộc là cần thiết để thấy, cách tính của NXBGD và lãi thực tế, cái gọi
là siêu lời?
Dự chi của Nhà nước từ
2002-2007 cho cuộc đổi mới này là 2 tỷ USD (từ báo cáo thẩm tra của Uỷ Ban
VH-GD-TTN-NĐ của Quốc hội). Gần đây có ý kiến nói 100 triệu USD/năm là tiền
lãi của NXBGD là không chính xác. Con số 100 triệu/năm là doanh thu!
Vấn đề còn lại của
những tồn tại này là con người và tổ chức. Đây là công việc của Đảng và Nhà
nước.
Nguyễn Xuân Hãn
Vietnam Net