Các
báo đầu năm 2010 đưa tin
Bộ GD-ĐT
vừa giao cho Viện Khoa học giáo dục VN thực hiện
chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ với chủ đề “
Đổi
mới quản lý giáo dục trong quá trình hội nhập quốc
tế”. Chương trình được thực hiện từ nay đến năm
2011 với kinh phí 5,5 tỉ đồng.
Mẩu tin
này nhắc ta nhớ tới Chiến lược phát triển giáo
dục Việt Nam 2009-2020 (dự thảo lần thứ 14, sau
đây gọi tắt là CL).
Theo
CL, phần V đưa ra mười một giải pháp chiến lược,
thì hai giải pháp trước tiên là “Đổi mới quản lý
giáo dục”, và “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục”.
Hai giải
pháp này được nêu trước tiên đã phản ánh quan điểm
phát triển giáo dục của Bộ GD-DT là ưu tiên chú ý
tới số lượng. Chả thế mà trong phần
IV, khi nêu ra “Các mục tiêu chiến lược giai đoạn
2009-2020” thì mục tiêu số một chính là “Quy mô
giáo dục được phát triển hợp lý…”
Nói quy
mô giáo dục phát triển là đã bao hàm số lượng trường
lớp, ngành nghề, thầy cô, người đi học, và đội ngũ
quản lý tăng lên; thế thì phải chú ý tới quản lý.
Xuất phát từ hệ quả này, trong phần VII của CL,
khi nêu ba giai đoạn của quá trình thực hiện thì
giai đoạn một (2009-2010) bao gồm “cải cách hành
chính triệt để trong hệ thống quản lý giáo dục từ
trung ương đến địa phương”.
Như thế,
việc Bộ GD-ĐT rót 5,5 tỉ đồng cho mục tiêu “đổi
mới quản lý giáo dục…”
đầu năm
nay cho thấy Bộ đã trung thành với chiến lược của
mình khi chọn ưu tiên là quản lý giáo dục, xem đây
là “giải pháp mang tính đột phá”.
Điều này
không khỏi cho ta băn khoăn. Muốn phát triển giáo
dục thì tại sao không ưu tiên ở chất lượng?
Chất lượng liên quan tới chương trình và tài liệu
giáo dục. Thế nhưng CL của Bộ đưa
chương trình và tài liệu giáo dục xuống giải pháp
thứ tư, trong phần “Các giải pháp khác”. Phải
chăng Bộ xem chúng không có tính đột phá như công
tác quản lý?
Câu hỏi
này đã được Bộ trả lời rồi, vì theo phần VII (Tổ
chức thực hiện), mãi tới giai đoạn hai (2011-2015)
Bộ mới tập trung vào các trọng điểm như “Triển
khai chương trình giáo dục mầm non mới, chuẩn bị
chương trình giáo dục phổ thông mới đồng thời tăng
cường sử dụng các chương trình đào tạo tiên tiến
quốc tế ở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp và đại học”.
Cách làm
CL như trên cho thấy Bộ GD-ĐT đã thiếu nhất
quán ngay từ đầu. Thật vậy, trong phần III nói về “Các
quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục”, thì Bộ
xác định “giáo dục và đào tạo phải góp phần tạo
nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo
đức…”, và khẳng định “Điều này đòi hỏi phải
có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội dung…”.
Nói như thế tức là đã hàm ngụ chương trình giáo dục
nên là yêu cầu số một.
Ở đây có
lẽ nên thông cảm cho sự thiếu nhất quán của Bộ. Mở
đầu phần III, CL của Bộ liền nói rằng “Phát
triển sự nghiệp giáo dục cần dựa trên một hệ thống
triết lý”. Điều này không sai. Có được triết lý
giáo dục rồi thì mới xác lập được chương trình giáo
dục tốt và đúng. Thế mà Bộ đã định hình được triết
lý giáo dục chưa?
Ta nhớ
rằng sáng ngày 21-9-2007 Học viện Quản lý giáo dục
thuộc Bộ GD-ĐT đã tổ chức hội thảo khoa học đầu tiên
bàn về “Triết lý giáo dục Việt Nam”. Thế nhưng, theo Tạp chí Cộng
sản, “Hội nghị kết thúc, một định nghĩa cụ
thể về triết lý giáo dục của Việt Nam vẫn chưa được nêu lên…”.
Để phát
triển giáo dục Việt Nam mà ưu tiên chú trọng đổi mới
quản lý như cách Bộ đang làm, e là không tránh khỏi
có người suy nghĩ rằng tư duy của Bộ chưa phải là tư
duy của các nhà giáo dục; trước sau Bộ vẫn bộc lộ
mình chỉ là người chăm làm quản lý!
Tuần báo Công Giáo
và Dân Tộc, số 1741, ngày 15-01-2010