Một cái nhìn thẳng thắn về Đại học và Nghiên cứu ở Việt Nam của một nhà Vật lý nước ngoài

Vietsciences-Pierre Darriulat           09/05/2007
 

GS TSHK Pierre Darriulat
Phòng Thí nghiệm tia Vũ trụ,
Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân-INST

Gần đây, Ban biên tập tạp chí Vật Lý Ngày Nay kêu gọi đóng góp bài viết từ các nhà khoa học nước ngoài nhận định về giáo dục đại học và nghiên cứu ở Việt Nam. Bài báo này đáp ứng lại lời kêu gọi đó. Dựa vào kinh nghiệm lâu năm là một nhà vật lý tại châu Âu và Hoa Kỳ, làm việc trong lĩnh vực vật lý hạt nhân, vật lý hạt, vật lý chất rắn, đồng thời dựa vào kinh nghiệm sáu năm là giảng viên của một số trường đại học Việt Nam và là một nhà nghiên cứu tại một phòng thí nghiệm vật lý tia vũ trụ tại Hà Nội. Những quan điểm thẳng thắn ở đây hoàn toàn là quan điểm cá nhân, những cách nhìn nhận này có thể là thiển cận. Tuy nhiên, nếu được xem xét một cách nghiêm túc thì chúng vẫn có thể có ích cho một số người quan tâm.


Nói một cách ngắn gọn, tôi cho rằng, Việt Nam xứng đáng có các trường đại học và các phòng thí nghiệm chất lượng cao. Tuy nhiên, nó chưa có được điều đó. Sự phát triển nhanh chóng gần đây đòi hỏi phải cải thiện công tác đào tạo đại học và nghiên cứu để bắt kịp với sự chậm chễ mà 30 năm chiến tranh đã gây ra. Điều này đã được đề cập trong nhiều diễn đàn khác nhau và theo tôi điều đó không có gì phải bàn cãi. Trong bài báo này, tôi tập trung vào các hành động và công việc nên thực hiện để cải thiện chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu ở Việt Nam. Xin nhắc lại, đây là các ý kiến cá nhân, chúng cũng có thể là sai.


1. Sự cần thiết phải có đường lối chỉ đạo chung


Bình luận đầu tiên liên quan đến các câu hỏi rất cơ bản yêu cầu câu trả lời từ đó xác định một khung chung để các trường đại học và nghiên cứu ở Việt Nam có thể dựa vào đó mà phát triển. Đó là Tại sao Việt Nam cần đại học? và Tại sao Việt Nam cần nghiên cứu? Đây không phải là những câu hỏi tầm thường; câu trả lời của chúng khác nhau từ nước này đến nước khác và trong cùng một đất nước câu trả lời cũng khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Chỉ khi những câu hỏi này được trả lời thì người ta mới hy vọng trả lời được các câu hỏi liên quan: Việt Nam cần loại đại học nào? và Việt Nam cần nghiên cứu gì? Những câu trả lời đó phản ánh kiểu xã hội mà đất nước đó muốn có, chúng là các lựa chọn chính mà chính phủ chọn thay cho nhân dân; không cần phải nói, tôi hoàn toàn không thể đưa ra, thậm chí gợi ý, câu trả lời có thể cho các câu hỏi trên. Tôi chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên copy một cách mù quáng những cách các nước khác đã và đang làm. Tốt hơn là tìm những câu trả lời rõ ràng, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, phổ biến chúng, sử dụng chúng như là một khung chung để từ đó xác định đường lối chỉ đạo và đi lên.


Một vài ví dụ minh hoạ cho quan điểm của tôi.


Cách đây năm mươi năm, các nước phương tây quyết định dân chủ hoá các trường đại học, có nghĩa là mở các trường đại học tới một số lượng lớn hơn nhiều sinh viên so với trước đó. Nhìn chung, đó là một ý tưởng tuyệt vời, và tôi cho rằng đó là một thành công. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách kỹ hơn có rất nhiều thất bại đã xảy ra do đó cần nhìn lại ý tưởng ban đầu. Rất nhiều sinh viên vào đại học trong đó có những người hoặc là không thể theo hết khoá học hoặc bất đắc dĩ phải cố gắng học. Do đó người ta phải tạo ra các khoá học ngắn hơn, một hoặc hai năm, để hướng họ tới các trường học nghề khi còn chưa muộn (điều này nói lên rằng không thể nghĩ đại học một cách cô lập mà phải đặt nó trong một hoàn cảnh lớn hơn, một hình thức giáo dục cao). Những sinh viên kém không thể ra trường phải đối mặt với những vấn đề lớn là tìm kiếm công việc sau khi “mất” một vài năm tại đại học. Những câu hỏi đặt ra ở đây là sự lựa chọn rất cơ bản của xã hội. Ví dụ như dân chủ hay công bằng (mọi người đều có quyền học nhưng những sinh viên giỏi cũng phải có quyền tiến bộ với tốc độ nhanh hơn và không bị chậm trễ bởi các sinh viên kém). Từ kinh nghiệm ở Việt Nam của tôi, dường như trong vấn đề này còn có rất nhiều việc phải làm. Rất rất nhiều sinh viên không đủ trình độ hoàn thành bậc học đại học nhưng vẫn tiếp tục theo đuổi đến tận năm cuối cùng của bậc học này; họ không những làm giảm giá trị của bằng tốt nghiệp mà còn cản trở những sinh viên khá tiếp tục được đào tạo ở mức độ cao hơn mà họ xứng đáng được hưởng. Các lớp cử nhân khoa học tài năng không giải quyết được vấn đề này, sự lựa chọn sinh viên thực hiện ở các lớp này là quá sớm. Theo tôi nên xem xét một cách nghiêm túc việc thay đổi hệ thống lớp học hiện nay, đó là một hệ thống quá cứng nhắc khó thay đổi nếu không muốn nói là không thể. Nên xem xét thay thế hệ thống hiện nay bằng hệ thống đang được sử dụng ở hầu hết các trường đại học trên thế giới, một hệ thống mà sinh viên có thể chọn, theo một vài quy tắc chung, phụ thuộc vào kỹ năng và tham vọng của họ, môn học nào và khoá học nào mà họ muốn theo và theo bao lâu. Hệ thống này linh động hơn tạo ra các khoá học ngắn cho những sinh viên không đủ khả năng hoàn thành tất cả các môn học của đại học. Đồng thời, nó cũng tạo cơ hội để đưa vào giảng dạy các môn học mới, ví dụ như vật lý thiên văn, môn học gần đây chưa được dạy tại các trường đại học ở Việt Nam. Nên có khả năng dừng việc học của các sinh viên tại các mức độ khác nhau tương ứng với các bằng khác nhau phù hợp với đòi hỏi của đất nước.


Ví dụ thứ hai: Gần đây chúng ta có nghe nhiều tranh luận về nhu cầu thành lập các trường đại học tư. Dĩ nhiên, đây là một câu hỏi lớn, xác định Nhà nước phải đầu tư bao nhiêu phần và sinh viên sẽ chịu bao nhiêu phần chi phí đào tạo. Câu hỏi chính này một lần nữa là sự lựa chọn của xã hội; câu trả lời của chúng phải xuất phát từ những người lãnh đạo Nhà nước. Không nên nghĩ rằng Harvard là một đại học tốt vì nó là một đại học tư và tất cả các đại học tư đều tốt và tất cả các đại học công đều tồi (thậm chí, đôi khi tôi được nghe các lập luận này dưới những dạng kém hài hước hơn một chút).


Ví dụ thứ ba: Vai trò của nghiên cứu trong các trường đại học. Ở các nước phát triển nhất, các đại học không tiến hành nghiên cứu là các đại học kém chất lượng. Việt Nam nên có một chính sách rõ ràng cho vấn đề này. Nên có các viện thực hiện nghiên cứu và cần phải xác định một cách rõ ràng mối quan hệ giữa các viện này và các trường đại học (theo tôi, cần phải giúp đỡ và khuyến khích một cách mạnh mẽ mối quan hệ này). Ở Pháp, sự bình thường hóa quan hệ giữa các trường đại học và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS, Centre National de la Recherche Scientifique) là một vấn đề lớn trong nhiều năm (ngày nay nó vẫn tồn tại trong một phạm vi nào đó). Ở Việt Nam, cũng tồn tại vấn đề tương tự. Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ khoa học công nghệ, tôi không đề cập tới các đơn vị khác, cần hợp tác một cách chặt chẽ để xác định hoàn cảnh và xác định rõ vai trò của các trường đại học và các viện nghiên cứu.


Ví dụ cuối cùng: Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Rõ ràng trong giai đoạn phát triển nhanh hiện nay, Việt Nam cần dành ưu tiên cho nghiên cứu ứng dụng, tuy nhiên hầu hết mọi người đều đồng ý rằng, ít nhất tôi hy vọng như thế, phải dành không gian cho nghiên cứu cơ bản. Kinh nghiệm cho thấy không có nghiên cứu ứng dụng tốt nếu thiếu nghiên cứu cơ bản chất lượng cao. Tiêu chí lựa chọn chủ đề cho nghiên cứu cơ bản là không khó. Tuy nhiên, cần có đường lối chính sách khoa học để xác định phương hướng ủng hộ nghiên cứu cơ bản. Một lần nữa những quyết định này chỉ có thể thực hiện ở cấp Chính phủ.
Tôi không nghi ngờ câu trả lời cho những câu hỏi trên đã có trong phạm vi Chính phủ, nhưng nó dường như chưa được phổ biến tới các cấp thấp hơn những cấp mà tôi có cơ hội trao đổi, với đồng nghiệp và với các sinh viên. Làm rõ những câu trả lời này và phổ biến làm sao cho mọi người có thể được thông tin một cách đầy đủ nội dung của chúng là rất quan trọng cho sự phát triển.


2. Điều gì cần phải được ưu tiên thực hiện?


Nếu được hỏi hãy chỉ ra một hành động cần được tiến hành để cải thiện chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu ở Việt Nam, không do dự một giây: Tôi có thể nói rằng lương của các giảng viên và các nghiên cứu viên cần phải tăng lên. Lương hiện tại của họ thường chỉ bằng một phần tư số họ cần để trang trải cho cuộc sống. Hệ quả là họ phải tìm một công việc thứ hai, chiếm nhiều thời gian và công sức của họ và làm giảm một cách nặng nề chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Hơn nữa, với mức lương thấp như vậy (so với phần còn lại của xã hội) không đem lại cho họ phẩm chất mà người ta nghĩ họ xứng đáng có được trong một đất nước giàu truyền thống lịch sử văn hoá và nền giáo dục với sự kính trọng cao. Nhiều người thấy khó khăn trong những điều kiện như vậy để tiếp tục giữ động lực cải thiện chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Những hệ quả của mức lương thấp như vậy là cực kỳ nguy hiểm ở nhiều khía cạnh. Nó tạo ra những thói quen xấu, thậm chí có thể dẫn đến tham ô. Đại học không nên chỉ mang lại sự đào tạo tốt mà còn phải là những tấm gương sáng về đạo đức cho sinh viên; các sinh viên phải được đào tạo không chỉ tính nghiêm túc mà còn liêm khiết và công bằng; các nội dung đạo đức này là rất quan trọng.


Tôi không ngây thơ mà nghĩ rằng thực hiện những công việc này là dễ. Tôi nhận thức rõ rằng, nó đòi hỏi thời gian và công sức để xây dựng lại nguồn nhân lực với một lựa chọn giảng viên, nghiên cứu viên và các dự án nghiên cứu khắt khe hơn nhiều so với hiện nay. Để thực hiện được điều này là rất khó khăn và tốn kém. Một lần nữa, chính sách chung từ các cấp lãnh đạo là rất quan trọng. Có trả lương như nhau cho hai giảng viên, một người không làm công tác nghiên cứu mà chỉ đơn thuần đọc giáo trình và một người làm công tác nghiên cứu và viết giáo trình cho các bài giảng của họ? Đánh giá số lượng và chất lượng các công trình công bố của họ như thế nào? Ở đây một lần nữa, có những câu hỏi cần có câu trả lời, ít nhất theo nghĩa rộng, ở cấp lãnh đạo. Một số lựa chọn là cần thiết nếu người ta mong muốn có công bằng. Hệ quả của nó sẽ tạo động lực và quyết tâm đem lại chất lượng cao cho giáo dục và nghiên cứu mà đất nước xứng đáng có được.


3. Tự tin hơn vào Việt Nam và mở hơn ra thế giới


Một khó khăn lớn mà Việt Nam nói chung và các trường đại học và nghiên cứu nói riêng cần phải vượt qua là sự chảy máu chất xám thảm khốc mà đất nước đã phải chịu nhiều năm nay. Việt Nam nhận được nhiều sự giúp đỡ và ủng hộ từ nước ngoài dưới dạng các học bổng, tạo điều kiện cho sinh viên có thể ra nước ngoài học tập và nghiên cứu. Nhưng chỉ Việt Nam mới có thể đảm bảo rằng những sinh viên giỏi trong số các sinh viên này sẽ trở về Việt Nam; điều này là cần thiết cho nguồn nhân lực mà đất nước đã đầu tư không bị phí. Chỉ Việt Nam mới có thể tạo cho các sinh viên này một tương lai, thúc đẩy họ trở về đất nước của mình. Đôi lúc đại học Việt Nam dường như thiếu sự tin tưởng vào thế hệ trẻ và không sẵn sàng trao cho họ trách nhiệm mà họ có thể đảm nhiệm được. Trong lịch sử, cách mạng và chiến tranh đã đem lại cơ hội cho những người Việt Nam trẻ tuổi, thông minh đảm trách những trọng trách quan trọng của đất nước, và chúng ta đã thấy họ thành công như thế nào. Tại sao bây giờ chúng ta lại không tin tưởng vào những sinh viên thông minh và có khả năng để xây dựng một đất nước hiện đại và hoà bình? Đây là một câu hỏi làm tôi rất trăn trở bởi vì tôi thường sợ rằng những cố gắng mà tôi bỏ ra đào tạo sinh viên của mình thành các nhà khoa học sẽ bị bỏ phí nếu đất nước không thể giữ họ; Tôi biết mong muốn thúc đẩy sự phát triển đất nước của họ nhiều như thế nào. Tôi cho đó là một sự thất bại nếu đất nước để cho họ ra đi. Nhưng chảy máu chất xám sẽ không dừng trừ khi đất nước cho thấy sự quyết tâm ngăn chặn điều đó, đồng nghĩa với việc tạo tương lai cho các sinh viên giỏi.


Sự thiếu tự tin vào khả năng và kỹ năng của thế hệ trẻ Việt Nam ngược với sự tự hào quá đáng khi cần những lời khuyên từ nước ngoài hoặc các chuyên gia nước ngoài về lựa chọn chính sách khoa học, lựa chọn dự án nghiên cứu và thậm chí đội ngũ nghiên cứu. Ở nước ngoài trong hội đồng xét tuyển gồm các chuyên gia nước ngoài là một điều bình thường, đó là một thực tế tạo ra sự công bằng trong đánh giá đồng thời mở ra thế giới, tạo ra sự liên kết với các trường đại học và các viện nghiên cứu trên thế giới. Theo tôi thực tế này cần được khuyến khích ở Việt Nam cũng như khuyến khích mọi sáng kiến tạo ra sự liên hệ với thế giới bên ngoài. Một ví dụ là sự phát triển đào tạo nghiên cứu sinh dưới sự đồng hướng dẫn của hai giáo sư, một từ đại học ngoài nước và một từ Việt Nam. Luận văn được viết và trình bày bằng một trong hai thứ tiếng, hoặc là tiếng Anh, bản tóm tắt viết bằng hai thứ tiếng. Sinh viên nhận bằng tiến sỹ từ hai trường. Khả năng này là một cơ hội cho Việt Nam mở ra với các đại học uy tín trên thế giới và chúng ta nên nghĩ rằng phương thức hợp tác này cần được khuyến khích và hết sức ủng hộ. Tuy nhiên, với kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy sự hợp tác với các trường đại học nước ngoài lại dễ hơn so với các đại học ở Việt Nam. Hợp tác với các nhóm nghiên cứu nước ngoài không nên chỉ nhìn dưới góc độ là một phương thức nhận tiền mà nên nhìn với góc độ xa hơn là một cách đưa nghiên cứu của Việt Nam ra với thế giới và cải thiện chất lượng của nó.


Đến đây tôi đã có thể kết luận. Tôi đã chọn ba chủ đề mà theo tôi là đặc biệt quan trọng và tôi cũng đã trình bày rất thẳng thắn những phản ứng mà những vấn đề này gợi nên trong suy nghĩ của tôi. Tôi nhận thức rõ rằng còn nhiều khó khăn làm cho những vấn đề này không đơn giản như tôi nghĩ: Tôi xin lỗi cho sự quá đơn giản trong việc giải quyết các vấn đề này. Tuy nhiên, tôi hy vọng không bị trách vì những điều mình vừa nói, tôi không có ý gì khác ngoài mong muốn giúp cho sự phát triển của giáo dục và đào tạo nói chung và khoa học Việt Nam nói riêng. Tôi đã gặp nhiều người được biết trong nước và đọc nhiều bài báo phân tích sâu sắc về các vấn đề này, họ bắt đầu phê phán nặng nề hệ thống đại học và nghiên cứu hiện nay của Việt Nam. Thậm chí nhiều người nói rằng, không còn hy vọng cải thiện hệ thống hiện nay: Họ cho rằng phải có cái gì đó mới bắt đầu từ một mớ hỗn độn. Họ biết họ nói gì và người ta sợ rằng họ đúng. Chúng ta chỉ có thể hy vọng họ sai nhưng, để cho những suy nghĩ đó chỉ đơn giản là mộng tưởng, các trường đại học nên có các phong trào mạnh mẽ tạo nên sự thay đổi và tạo ra sự quyết tâm để cải thiện một cách đáng kể chất lượng đào tạo và nghiên cứu của mình.
 

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Pierre Darriulat