GS TSHK Pierre Darriulat
Phòng Thí nghiệm tia Vũ trụ,
Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân-INST
Gần đây, Ban biên tập tạp chí Vật Lý Ngày Nay kêu gọi đóng góp bài
viết từ các nhà khoa học nước ngoài nhận định về giáo dục đại học và nghiên
cứu ở Việt Nam. Bài báo này đáp ứng lại lời kêu gọi đó. Dựa vào kinh nghiệm
lâu năm là một nhà vật lý tại châu Âu và Hoa Kỳ, làm việc trong lĩnh vực vật
lý hạt nhân, vật lý hạt, vật lý chất rắn, đồng thời dựa vào kinh nghiệm sáu
năm là giảng viên của một số trường đại học Việt Nam và là một nhà nghiên
cứu tại một phòng thí nghiệm vật lý tia vũ trụ tại Hà Nội. Những quan điểm
thẳng thắn ở đây hoàn toàn là quan điểm cá nhân, những cách nhìn nhận này có
thể là thiển cận. Tuy nhiên, nếu được xem xét một cách nghiêm túc thì chúng
vẫn có thể có ích cho một số người quan tâm.
Nói một cách ngắn gọn, tôi cho rằng, Việt Nam xứng đáng có các trường đại
học và các phòng thí nghiệm chất lượng cao. Tuy nhiên, nó chưa có được điều
đó. Sự phát triển nhanh chóng gần đây đòi hỏi phải cải thiện công tác đào
tạo đại học và nghiên cứu để bắt kịp với sự chậm chễ mà 30 năm chiến tranh
đã gây ra. Điều này đã được đề cập trong nhiều diễn đàn khác nhau và theo
tôi điều đó không có gì phải bàn cãi. Trong bài báo này, tôi tập trung vào
các hành động và công việc nên thực hiện để cải thiện chất lượng đào tạo đại
học và nghiên cứu ở Việt Nam. Xin nhắc lại, đây là các ý kiến cá nhân, chúng
cũng có thể là sai.
1. Sự cần thiết phải có đường lối chỉ đạo chung
Bình luận đầu tiên liên quan đến các câu hỏi rất cơ bản yêu cầu câu trả lời
từ đó xác định một khung chung để các trường đại học và nghiên cứu ở Việt
Nam có thể dựa vào đó mà phát triển. Đó là Tại sao Việt Nam cần đại học? và
Tại sao Việt Nam cần nghiên cứu? Đây không phải là những câu hỏi tầm thường;
câu trả lời của chúng khác nhau từ nước này đến nước khác và trong cùng một
đất nước câu trả lời cũng khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong lịch
sử. Chỉ khi những câu hỏi này được trả lời thì người ta mới hy vọng trả lời
được các câu hỏi liên quan: Việt Nam cần loại đại học nào? và Việt Nam cần
nghiên cứu gì? Những câu trả lời đó phản ánh kiểu xã hội mà đất nước đó muốn
có, chúng là các lựa chọn chính mà chính phủ chọn thay cho nhân dân; không
cần phải nói, tôi hoàn toàn không thể đưa ra, thậm chí gợi ý, câu trả lời có
thể cho các câu hỏi trên. Tôi chỉ đơn giản nhấn mạnh rằng Việt Nam không nên
copy một cách mù quáng những cách các nước khác đã và đang làm. Tốt hơn là
tìm những câu trả lời rõ ràng, phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, phổ biến
chúng, sử dụng chúng như là một khung chung để từ đó xác định đường lối chỉ
đạo và đi lên.
Một vài ví dụ minh hoạ cho quan điểm của tôi.
Cách đây năm mươi năm, các nước phương tây quyết định dân chủ hoá các trường
đại học, có nghĩa là mở các trường đại học tới một số lượng lớn hơn nhiều
sinh viên so với trước đó. Nhìn chung, đó là một ý tưởng tuyệt vời, và tôi
cho rằng đó là một thành công. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách kỹ hơn có rất
nhiều thất bại đã xảy ra do đó cần nhìn lại ý tưởng ban đầu. Rất nhiều sinh
viên vào đại học trong đó có những người hoặc là không thể theo hết khoá học
hoặc bất đắc dĩ phải cố gắng học. Do đó người ta phải tạo ra các khoá học
ngắn hơn, một hoặc hai năm, để hướng họ tới các trường học nghề khi còn chưa
muộn (điều này nói lên rằng không thể nghĩ đại học một cách cô lập mà phải
đặt nó trong một hoàn cảnh lớn hơn, một hình thức giáo dục cao). Những sinh
viên kém không thể ra trường phải đối mặt với những vấn đề lớn là tìm kiếm
công việc sau khi “mất” một vài năm tại đại học. Những câu hỏi đặt ra ở đây
là sự lựa chọn rất cơ bản của xã hội. Ví dụ như dân chủ hay công bằng (mọi
người đều có quyền học nhưng những sinh viên giỏi cũng phải có quyền tiến bộ
với tốc độ nhanh hơn và không bị chậm trễ bởi các sinh viên kém). Từ kinh
nghiệm ở Việt Nam của tôi, dường như trong vấn đề này còn có rất nhiều việc
phải làm. Rất rất nhiều sinh viên không đủ trình độ hoàn thành bậc học đại
học nhưng vẫn tiếp tục theo đuổi đến tận năm cuối cùng của bậc học này; họ
không những làm giảm giá trị của bằng tốt nghiệp mà còn cản trở những sinh
viên khá tiếp tục được đào tạo ở mức độ cao hơn mà họ xứng đáng được hưởng.
Các lớp cử nhân khoa học tài năng không giải quyết được vấn đề này, sự lựa
chọn sinh viên thực hiện ở các lớp này là quá sớm. Theo tôi nên xem xét một
cách nghiêm túc việc thay đổi hệ thống lớp học hiện nay, đó là một hệ thống
quá cứng nhắc khó thay đổi nếu không muốn nói là không thể. Nên xem xét thay
thế hệ thống hiện nay bằng hệ thống đang được sử dụng ở hầu hết các trường
đại học trên thế giới, một hệ thống mà sinh viên có thể chọn, theo một vài
quy tắc chung, phụ thuộc vào kỹ năng và tham vọng của họ, môn học nào và
khoá học nào mà họ muốn theo và theo bao lâu. Hệ thống này linh động hơn tạo
ra các khoá học ngắn cho những sinh viên không đủ khả năng hoàn thành tất cả
các môn học của đại học. Đồng thời, nó cũng tạo cơ hội để đưa vào giảng dạy
các môn học mới, ví dụ như vật lý thiên văn, môn học gần đây chưa được dạy
tại các trường đại học ở Việt Nam. Nên có khả năng dừng việc học của các
sinh viên tại các mức độ khác nhau tương ứng với các bằng khác nhau phù hợp
với đòi hỏi của đất nước.
Ví dụ thứ hai: Gần đây chúng ta có nghe nhiều tranh luận về nhu cầu
thành lập các trường đại học tư. Dĩ nhiên, đây là một câu hỏi lớn, xác định
Nhà nước phải đầu tư bao nhiêu phần và sinh viên sẽ chịu bao nhiêu phần chi
phí đào tạo. Câu hỏi chính này một lần nữa là sự lựa chọn của xã hội; câu
trả lời của chúng phải xuất phát từ những người lãnh đạo Nhà nước. Không nên
nghĩ rằng Harvard là một đại học tốt vì nó là một đại học tư và tất cả các
đại học tư đều tốt và tất cả các đại học công đều tồi (thậm chí, đôi khi tôi
được nghe các lập luận này dưới những dạng kém hài hước hơn một chút).
Ví dụ thứ ba: Vai trò của nghiên cứu trong các trường đại học. Ở các
nước phát triển nhất, các đại học không tiến hành nghiên cứu là các đại học
kém chất lượng. Việt Nam nên có một chính sách rõ ràng cho vấn đề này. Nên
có các viện thực hiện nghiên cứu và cần phải xác định một cách rõ ràng mối
quan hệ giữa các viện này và các trường đại học (theo tôi, cần phải giúp đỡ
và khuyến khích một cách mạnh mẽ mối quan hệ này). Ở Pháp, sự bình thường
hóa quan hệ giữa các trường đại học và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc
gia (CNRS, Centre National de la Recherche Scientifique) là một vấn đề lớn
trong nhiều năm (ngày nay nó vẫn tồn tại trong một phạm vi nào đó). Ở Việt
Nam, cũng tồn tại vấn đề tương tự. Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ khoa học công
nghệ, tôi không đề cập tới các đơn vị khác, cần hợp tác một cách chặt chẽ để
xác định hoàn cảnh và xác định rõ vai trò của các trường đại học và các viện
nghiên cứu.
Ví dụ cuối cùng: Nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Rõ ràng
trong giai đoạn phát triển nhanh hiện nay, Việt Nam cần dành ưu tiên cho
nghiên cứu ứng dụng, tuy nhiên hầu hết mọi người đều đồng ý rằng, ít nhất
tôi hy vọng như thế, phải dành không gian cho nghiên cứu cơ bản. Kinh nghiệm
cho thấy không có nghiên cứu ứng dụng tốt nếu thiếu nghiên cứu cơ bản chất
lượng cao. Tiêu chí lựa chọn chủ đề cho nghiên cứu cơ bản là không khó. Tuy
nhiên, cần có đường lối chính sách khoa học để xác định phương hướng ủng hộ
nghiên cứu cơ bản. Một lần nữa những quyết định này chỉ có thể thực hiện ở
cấp Chính phủ.
Tôi không nghi ngờ câu trả lời cho những câu hỏi trên đã có trong phạm vi
Chính phủ, nhưng nó dường như chưa được phổ biến tới các cấp thấp hơn những
cấp mà tôi có cơ hội trao đổi, với đồng nghiệp và với các sinh viên. Làm rõ
những câu trả lời này và phổ biến làm sao cho mọi người có thể được thông
tin một cách đầy đủ nội dung của chúng là rất quan trọng cho sự phát triển.
2. Điều gì cần phải được ưu tiên thực hiện?
Nếu được hỏi hãy chỉ ra một hành động cần được tiến hành để cải thiện chất
lượng đào tạo đại học và nghiên cứu ở Việt Nam, không do dự một giây: Tôi có
thể nói rằng lương của các giảng viên và các nghiên cứu viên cần phải tăng
lên. Lương hiện tại của họ thường chỉ bằng một phần tư số họ cần để trang
trải cho cuộc sống. Hệ quả là họ phải tìm một công việc thứ hai, chiếm nhiều
thời gian và công sức của họ và làm giảm một cách nặng nề chất lượng giảng
dạy và nghiên cứu. Hơn nữa, với mức lương thấp như vậy (so với phần còn lại
của xã hội) không đem lại cho họ phẩm chất mà người ta nghĩ họ xứng đáng có
được trong một đất nước giàu truyền thống lịch sử văn hoá và nền giáo dục
với sự kính trọng cao. Nhiều người thấy khó khăn trong những điều kiện như
vậy để tiếp tục giữ động lực cải thiện chất lượng giảng dạy và nghiên cứu.
Những hệ quả của mức lương thấp như vậy là cực kỳ nguy hiểm ở nhiều khía
cạnh. Nó tạo ra những thói quen xấu, thậm chí có thể dẫn đến tham ô. Đại học
không nên chỉ mang lại sự đào tạo tốt mà còn phải là những tấm gương sáng về
đạo đức cho sinh viên; các sinh viên phải được đào tạo không chỉ tính nghiêm
túc mà còn liêm khiết và công bằng; các nội dung đạo đức này là rất quan
trọng.
Tôi không ngây thơ mà nghĩ rằng thực hiện những công việc này là dễ. Tôi
nhận thức rõ rằng, nó đòi hỏi thời gian và công sức để xây dựng lại nguồn
nhân lực với một lựa chọn giảng viên, nghiên cứu viên và các dự án nghiên
cứu khắt khe hơn nhiều so với hiện nay. Để thực hiện được điều này là rất
khó khăn và tốn kém. Một lần nữa, chính sách chung từ các cấp lãnh đạo là
rất quan trọng. Có trả lương như nhau cho hai giảng viên, một người không
làm công tác nghiên cứu mà chỉ đơn thuần đọc giáo trình và một người làm
công tác nghiên cứu và viết giáo trình cho các bài giảng của họ? Đánh giá số
lượng và chất lượng các công trình công bố của họ như thế nào? Ở đây một lần
nữa, có những câu hỏi cần có câu trả lời, ít nhất theo nghĩa rộng, ở cấp
lãnh đạo. Một số lựa chọn là cần thiết nếu người ta mong muốn có công bằng.
Hệ quả của nó sẽ tạo động lực và quyết tâm đem lại chất lượng cao cho giáo
dục và nghiên cứu mà đất nước xứng đáng có được.
3. Tự tin hơn vào Việt Nam và mở hơn ra thế giới
Một khó khăn lớn mà Việt Nam nói chung và các trường đại học và nghiên cứu
nói riêng cần phải vượt qua là sự chảy máu chất xám thảm khốc mà đất nước đã
phải chịu nhiều năm nay. Việt Nam nhận được nhiều sự giúp đỡ và ủng hộ từ
nước ngoài dưới dạng các học bổng, tạo điều kiện cho sinh viên có thể ra
nước ngoài học tập và nghiên cứu. Nhưng chỉ Việt Nam mới có thể đảm bảo rằng
những sinh viên giỏi trong số các sinh viên này sẽ trở về Việt Nam; điều này
là cần thiết cho nguồn nhân lực mà đất nước đã đầu tư không bị phí. Chỉ Việt
Nam mới có thể tạo cho các sinh viên này một tương lai, thúc đẩy họ trở về
đất nước của mình. Đôi lúc đại học Việt Nam dường như thiếu sự tin tưởng vào
thế hệ trẻ và không sẵn sàng trao cho họ trách nhiệm mà họ có thể đảm nhiệm
được. Trong lịch sử, cách mạng và chiến tranh đã đem lại cơ hội cho những
người Việt Nam trẻ tuổi, thông minh đảm trách những trọng trách quan trọng
của đất nước, và chúng ta đã thấy họ thành công như thế nào. Tại sao bây giờ
chúng ta lại không tin tưởng vào những sinh viên thông minh và có khả năng
để xây dựng một đất nước hiện đại và hoà bình? Đây là một câu hỏi làm tôi
rất trăn trở bởi vì tôi thường sợ rằng những cố gắng mà tôi bỏ ra đào tạo
sinh viên của mình thành các nhà khoa học sẽ bị bỏ phí nếu đất nước không
thể giữ họ; Tôi biết mong muốn thúc đẩy sự phát triển đất nước của họ nhiều
như thế nào. Tôi cho đó là một sự thất bại nếu đất nước để cho họ ra đi.
Nhưng chảy máu chất xám sẽ không dừng trừ khi đất nước cho thấy sự quyết tâm
ngăn chặn điều đó, đồng nghĩa với việc tạo tương lai cho các sinh viên giỏi.
Sự thiếu tự tin vào khả năng và kỹ năng của thế hệ trẻ Việt Nam ngược với sự
tự hào quá đáng khi cần những lời khuyên từ nước ngoài hoặc các chuyên gia
nước ngoài về lựa chọn chính sách khoa học, lựa chọn dự án nghiên cứu và
thậm chí đội ngũ nghiên cứu. Ở nước ngoài trong hội đồng xét tuyển gồm các
chuyên gia nước ngoài là một điều bình thường, đó là một thực tế tạo ra sự
công bằng trong đánh giá đồng thời mở ra thế giới, tạo ra sự liên kết với
các trường đại học và các viện nghiên cứu trên thế giới. Theo tôi thực tế
này cần được khuyến khích ở Việt Nam cũng như khuyến khích mọi sáng kiến tạo
ra sự liên hệ với thế giới bên ngoài. Một ví dụ là sự phát triển đào tạo
nghiên cứu sinh dưới sự đồng hướng dẫn của hai giáo sư, một từ đại học ngoài
nước và một từ Việt Nam. Luận văn được viết và trình bày bằng một trong hai
thứ tiếng, hoặc là tiếng Anh, bản tóm tắt viết bằng hai thứ tiếng. Sinh viên
nhận bằng tiến sỹ từ hai trường. Khả năng này là một cơ hội cho Việt Nam mở
ra với các đại học uy tín trên thế giới và chúng ta nên nghĩ rằng phương
thức hợp tác này cần được khuyến khích và hết sức ủng hộ. Tuy nhiên, với
kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy sự hợp tác với các trường đại học nước
ngoài lại dễ hơn so với các đại học ở Việt Nam. Hợp tác với các nhóm nghiên
cứu nước ngoài không nên chỉ nhìn dưới góc độ là một phương thức nhận tiền
mà nên nhìn với góc độ xa hơn là một cách đưa nghiên cứu của Việt Nam ra với
thế giới và cải thiện chất lượng của nó.
Đến đây tôi đã có thể kết luận. Tôi đã chọn ba chủ đề mà theo tôi là đặc
biệt quan trọng và tôi cũng đã trình bày rất thẳng thắn những phản ứng mà
những vấn đề này gợi nên trong suy nghĩ của tôi. Tôi nhận thức rõ rằng còn
nhiều khó khăn làm cho những vấn đề này không đơn giản như tôi nghĩ: Tôi xin
lỗi cho sự quá đơn giản trong việc giải quyết các vấn đề này. Tuy nhiên, tôi
hy vọng không bị trách vì những điều mình vừa nói, tôi không có ý gì khác
ngoài mong muốn giúp cho sự phát triển của giáo dục và đào tạo nói chung và
khoa học Việt Nam nói riêng. Tôi đã gặp nhiều người được biết trong nước và
đọc nhiều bài báo phân tích sâu sắc về các vấn đề này, họ bắt đầu phê phán
nặng nề hệ thống đại học và nghiên cứu hiện nay của Việt Nam. Thậm chí nhiều
người nói rằng, không còn hy vọng cải thiện hệ thống hiện nay: Họ cho rằng
phải có cái gì đó mới bắt đầu từ một mớ hỗn độn. Họ biết họ nói gì và người
ta sợ rằng họ đúng. Chúng ta chỉ có thể hy vọng họ sai nhưng, để cho những
suy nghĩ đó chỉ đơn giản là mộng tưởng, các trường đại học nên có các phong
trào mạnh mẽ tạo nên sự thay đổi và tạo ra sự quyết tâm để cải thiện một
cách đáng kể chất lượng đào tạo và nghiên cứu của mình.