Những bài cùng tác giả
Những bài cùng đề tài
Nền giáo dục đơn sơ
 Ảnh: truongxua.net Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và
trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản
thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói
ngược lại. Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (1) tôi thấy người ta chỉ ra rằng
thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có
tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Khi nền kinh tế ở
trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có
mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ,
kém cỏi. Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn VN cũng sẵn sàng bớt ăn bớt
mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”. Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài
liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt
(nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) - thử hỏi
sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê
học được gì ? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự
thế thôi chứ làm sao hơn được?! Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực
của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung
giáo dục lâu dài, có triển vọng. Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền
tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số
người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và … biết làm tính (2). Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật thì
một nét đặc thù của trí thức VN trong lịch sử là tính cách lưỡng phân.
Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích: Họ vừa là kẻ sĩ vừa là
nông dân. Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu
trí tuệ của họ bị giảm thiểu. Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ
thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn , họ dễ bị hư hỏng. Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo
đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn
không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới. Đây là
lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:
Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà
Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có
ngày lều chõng khoa cử thì sao? Bởi việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ
lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là
con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.
Không có sản phẩm trí thức
Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các
triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia
tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn miếu. Nhưng thử hỏi trước tác của các
vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua
thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn. Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác.
Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê,
người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui. Đó là nhiều nhà văn nhà thơ VN thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm
(đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền
tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ
điển). Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của
Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục
dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi
thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm
được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người. Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái
chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ
khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng - chúng tôi muốn nói tới trạng chính
thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian. Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng VN thì không kể
triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47
người được phong trạng. Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách
các tác gia nổi tiếng ở nước ta. Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn
Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người
không thuộc loại đỗ đạt cao. Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ
như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết
lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ
đỗ đến tú tài. Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo
sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con
người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc
bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có,
nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy
độc lập và sự sáng tạo. Ta đã có tầng lớp tri thức đúng nghĩa?
Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều
đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan
tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó. Sự trì trệ
kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu
xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình.
Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại. Tôi muốn đặt vấn đề: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng
lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp
như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ
bị làm hỏng đến vậy? Trước 1945, những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Đào Duy
Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Tri Tân
Thanh Nghị… đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết. Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là
một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi
tới những khái quát cực đoan hơn. Trong một bài viết mang tên Tâm lý dân
tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay nhà xã hội học lão thành Đỗ
Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền VN thiếu ba chỗ dựa cơ bản: - Không có giai cấp quý tộc trong khi có đông đảo đám quan lại nhất
thời. - Không có tầng lớp trí thức để có được các trào lưu học thuật tư tưởng
riêng. Rất hiếm thấy cái cốt cách như Lý Bạch“ Thiên tử hô lai bất
thượng thuyền”. Học để làm quan, tuyệt đại đa số kẻ sĩ đều mộng làm quan
hơn là giữ vai trò thầy đồ… áo rách. - Không có lớp doanh nhân tung hoành về thương mại hay công nghệ trong
nước cũng như ngoài nước. Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên
quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói. Thói háo danh chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một tầng lớp trí thức non
yếu. Còn mọi thái độ dễ dãi với họ chiều nịnh họ mà không dám yêu cầu
cao ở họ cuối cùng chỉ đẩy họ sa đà mãi trong tình trạng bần cùng về trí
tuệ và nẩy sinh những căn bệnh mới. Cũng nên nói thêm, sự dễ dãi này ban đầu có vẻ là một thiện ý hoặc nói
như chữ nghĩa thời nay – một sự chia sẻ, nó bắt đầu từ một cảm nhận
chung về sức ép của hoàn cảnh. Nó là cách nghĩ từng ngự trị trong xã hội một thời gian dài. Đất nước lo
gồng mình lên để chống ngoại xâm. Cuộc sống khó khăn đến nỗi, khi nghĩ
về nhau người ta chỉ thấy những điều tốt đẹp, cốt sao giữ lấy cho nhau
niềm tự tin, rồi động viên nhau hợp sức trong việc chống trọi lại các
thế lực thù địch từ bên ngoài tới. Tức nó là sản phẩm của những thời đại
mà mọi nỗ lực của con người là lo tồn tại, tới mức có thể bảo nền văn
hóa của chúng ta là văn hóa để tồn tại. Còn nếu như đặt vấn đề tồn tại chỉ là chuyện tối thiểu, cái đáng lo hơn,
như hôm nay, là chuyện phát triển, chúng ta sẽ phải nghĩ khác về quá khứ
và luôn thể nhìn lại khác đi về nhau. Nay là lúc mọi sự vuốt ve nhau dễ dãi, là không đủ nữa. Công cuộc phát
triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế
và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để
làm dáng. • Vương Trí Nhàn Ghi chú:
(1) Roger Gal Lịch sử giáo dục, bản dịch Lê Thanh Hoàng Dân-- Trần Hữu
Đức. NXB Trẻ-- Sài gòn, 1971 (2) Dẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư của nhà xuất bản Khoa học xã hội
1983, tập II tr 296 (5) Nguyễn An Ninh Tính chất lưỡng phân, một nét đặc
thù của trí thức Việt nam trong lịch sử Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật 1998,
số 1 Chú ý xin đừng lầm với Nguyễn An Ninh (1900-1943), nhà hoạt động xã hội
ở đầu thế kỷ XX. Có điều thú vị là nhà trí thức lớn Nguyễn An Ninh trước
đây cũng từng nhận xét xứ ta là nơi mà “chỉ với một chút xíu khoa học”
người ta đã có thể tự coi mình là nhà thông thái, tương tự như “với hai
xu trong túi, người ta đã trở thành những nhà giàu.” Khi lưu ý tình
trạng nhiều người “cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp
lều”, hình như ông muốn nói rằng tình trạng thiếu khát vọng và ý chí đã
kìm giữ mãi chúng ta trong khung cảnh lạc hậu.
|