Những bài cùng tác giả
Em sinh
năm 2001, vào học lớp Một năm 2007-08. Em hưởng trọn vẹn nền giáo dục thế kỷ
XXI.
Vấn đề.
Nền giáo dục hiện đại thế kỷ XXI có gì khác với Nền giáo dục thế kỷ XX kéo
dài sang?
Giả
thuyết.
Nền giáo dục hiện đại thế kỷ XXI ở tầm nguyên lý cao hơn, như Đại
công nghiệp cơ khí cao hơn Tiểu nông – tiểu thủ công. Sự khác biệt này biểu
hiện một cách tường minh ở tất cả các lĩnh vực:
Nội dung
(cái)
Phương
pháp (cách)
Thể chế
tổ chức
Xử lý
đồng bộ các lĩnh vực trên, ngay từ đầu, cần phải định hướng dứt khoát, rõ
ràng:
Hướng đi
– Hiện đại hoá nền giáo dục,
Cách làm
– Công nghệ hoá quá trình giáo dục.
Giải pháp.
1. Bậc tiểu học thuần Việt, đảm bảo cho cả 100% dân cư hiện đại:
* Ai
được học thì học được, học gì được nấy, học đâu được đấy. Nhờ vậy
* Mỗi
ngày đến trường náo nức một ngày vui!
* Đi
học là hạnh phúc!
2. Bậc trung học một phần hội nhập và theo cơ chế tự chọn.
3. Bậc đại học hội nhập với thế giới hiện đại.
Bậc tiểu
học đầu thế kỷ xxi
I.
Định hướng tổng quan
1. Bậc tiểu học thực hiện được bước phát triển từ
lứa tuổi 0-6 (ở nhà) sang lứa tuổi 6-12 (ở trường). Bước phát triển này đặc
trưng bởi sự phát triển trí tuệ, nhận thức, tư duy. (Lĩnh vực này
được nghiên cứu tập trung nhất trong triết học và tâm lý học lứa tuổi). Bậc
tiểu học thực hiện bước phát triển từ tư duy kinh nghiệm chủ nghĩa,
với khái niệm kinh nghiệm chủ nghĩa và các thao tác tay chân, sang
tư duy khoa học bằng các khái niệm khoa học, với các thao tác trí óc.
Đó là bước phát triển quan trọng bậc nhất của đời người hiện đại, coi như
một “bước nhảy sinh mệnh”, một có một không.
Sự phát triển trí tuệ diễn ra trong lĩnh vực khoa học, dưới hình thức
các Môn học. Các Môn học khoa học làm nên cốt thép vững chắc
của toà nhà trí tuệ hiện đại, là nền tảng trí tuệ và tâm hồn của cả
đời người. Vì vậy việc học ở lứa tuổi này đóng vai trò chủ đạo trong
sự phát triển cá nhân, là sức mạnh “vật chất” tạo ra sự phát triển của lứa
tuổi.
2. Nói rằng, ở lứa tuổi 6-12, sự phát triển trí
tuệ đóng vai trò chủ đạo, tự nó có nghĩa là có nhiều lĩnh vực tinh thần
cùng làm nên Cuộc sống thực tự nhiên của em:
Khoa học cho Lý trí.
Nghệ thuật cho Tình cảm.
Niềm tin cho Đạo đức.
ý chí cho Lối sống.
…………………..
Khi em đến trường, học lớp Một, tất cả đều đã có, đã có một cách tự
phát tự nhiên, ngay trong cuộc sống hằng ngày, như phù sa lắng đọng, ở tận
đáy sâu tâm hồn bé, đã có là còn đó suốt đời.
Các Môn học (hiểu là các Hệ thống khái niệm khoa học) là cốt thép của Lý
trí, là sức mạnh của Tư duy. Còn trong các lĩnh vực Tình cảm, Đạo
đức, Niềm tin, ý chí… thì khái niệm dùng làm chỗ bấu víu, định hướng,
cho sự vận dụng, điều chỉnh (uốn nắn…), nên chỉ cần các khái niệm
kinh nghiệm chủ nghĩa, gắn với phong tục tập quán, truyền thống lâu đời của
dân tộc… Trong các lĩnh vực này, những gì đã có là đã có và vẫn còn có mãi,
có thể sẽ vững chắc hơn, nhưng không phát triển. Chỉ có lý trí, tư duy mới
có năng lực phát triển, ngày càng có nhiều cái mới hơn, với chất
lượng cao hơn.
3. Bậc tiểu học hiện đại dành cho lứa tuổi 6-12 có tầm quan trọng
quyết định đối với phần đời còn lại.
- Một cách tường minh, sự phát triển trí tuệ đóng vai trò chủ đạo là
cơ hội đầu tiên cho em tiếp cận nền văn minh hiện đại, để em có thêm những
cái lần đầu tiên có. Về phía Người lớn, giáo dục nhà trường đóng vai
trò chủ đạo, hoặc có thể tự làm lấy việc này.
- Một cách ẩn tàng, vốn có sẵn như là nhân lõi hình thành từ lúc lọt
lòng những gì về tình cảm, đạo đức… mà vì không thể tường minh, nên người
đời nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Giáo dục nhà trường cùng với giáo
dục gia đình cần tận dụng, phát huy và điều chỉnh cái đã có ở nhà,
làm cho nó “sáng hơn”, “vững chãi” hơn…
Từ sự phân tích trên, cần tổ chức lại giáo dục tiểu học theo hướng:
Buổi sáng
dành cho các Môn học khoa học: Toán – Tiếng Việt – Văn, đặc trưng cho
giáo dục nhà trường, chủ yếu tạo ra sự phát triển trí tuệ, tư duy…
Buổi
chiều
dành cho các Hoạt động, Ngoại ngữ, Đất nước học (bao gồm Sử - Địa –
Môi trường…), nặng về tình cảm, bản sắc văn hoá, gắn liền với Cuộc sống
thường ngày ở nhà, tại địa phương. Vì vậy, nên tổ chức nhiều Hoạt động tự
nguyện, với nhiều loại hình, với tính đa dạng về nội dung, địa điểm,
thời gian: ngày nghỉ, ngày hè, ngày lễ… cốt tạo ra hoạt động chung giữa
nhiều người, cho em thâm nhập vào các quan hệ xã hội hiện đại hết sức đa
dạng và phong phú.
* Nếu các Môn học tạo ra sự phát triển trí
tuệ bằng sức mạnh (năng lượng) của khái niệm khoa học hiện đại, cho em trực
tiếp tiếp cận nền văn minh hiện đại, thì các Hoạt động (thường là ở
ngoài 4 bức tường lớp học) tạo ra sự hài hoà, tự nhiên bình thường của Cuộc
sống thực hiện đại, năng động, cởi mở…
* Cả hai cùng nhau tạo ra sự phát triển
tự nhiên của từng cá nhân học sinh, là “nguồn năng lượng” đáng tin cậy
nhất cấp cho Lẽ sống và Sức sống của giáo dục nhà trường và mang lại cho em
Hạnh phúc đi học cùng Niềm vui đến trường.
Nhà
trường hiện đại là nơi Trẻ em đang sống cuộc sống thực ngay bây giờ, ngay
ngày hôm nay, với những hạnh phúc thực, đau khổ thực, bù trừ cho nhau một
cách tự nhiên, tạo ra sự cân bằng tự nhiên trong Cuộc sống thực của mỗi cá
nhân hiện đại.
II.
Định hướng cho Thiết kế
Một.
Bậc tiểu học có hai cơ hội vàng.
Cơ hội cuối cùng để giáo dục nhà trường củng cố vững chắc hơn bản sắc
dân tộc. Theo nghĩa này, Bậc tiểu học phải thuần Việt.
Cơ hội đầu tiên để giáo dục nhà trường cho em tiếp cận với nền văn
minh đương thời, được hưởng ngay những thành tựu hiện đại có tính nhân loại.
Theo nghĩa này, Bậc tiểu học phải hiện đại.
Hai.
Bậc tiểu học hiện đại được thiết kế theo:
Hướng đi – hiện đại hoá nền giáo dục.
Cách làm – công nghệ hoá quá trình giáo dục,
sao cho ngay từ khi bước chân vào lớp Một, em học gì được nấy, học đâu
được đấy, đem lại cho em hứng thú mỗi ngày đến trường náo nức một
ngày vui, đi học là hạnh phúc. Xin lưu ý rằng học sinh tiểu học còn bé,
còn có bố mẹ, ông bà nội ngoại, chú bác cô dì cậu mợ, anh chị em ruột và họ
hàng… Có hàng trăm người liên quan đến một em. Hạnh phúc của em làm cho gia
đình dễ yên ấm, gia đình yên ấm thì xã hội dễ yên lành. Nói cách khác, bậc
tiểu học có một vai trò xã hội – chính trị rất lớn và rất thực.
Ba.
Bậc tiểu học hiện đại đã có sẵn cứ liệu tuyệt vời về thể chất.
Năm 2001, Mỹ công bố Bản đồ gen: Trẻ em hiện đại sinh ra đều có đến
99,9% số gen giống nhau. Do đó, tất cả trẻ em hiện đại đều có bộ não như
nhau cho sự phát triển tinh thần, năng lực trí tuệ, năng khiếu nghệ
thuật, phẩm chất đạo đức… ở mặt này, nền giáo dục hiện đại còn phải thăm dò,
thu thập cứ liệu trên Trẻ em hiện đại. Từ 1960, các nhà khoa học trên thế
giới đã “sáng chế” ra phương tiện thăm dò bằng phương thức thực nghiệm, ở
trường Thực nghiệm, nhờ vậy đã có những cứ liệu vững chắc làm cơ sở để
thiết kế Bậc tiểu học thế kỷ XXI khác về nguyên lý so với Bậc tiểu
học thế kỷ XX, như máy cày khác cày chìa vôi.
Xây dựng Bậc tiểu học hiện đại có thể bắt đầu xử lý
một cách vật chất, bằng hai chữ: cái và cách (cốt thép của Toà nhà giáo
dục).
* Em cần (học) cái gì?
* Em làm ra (học) cái đó bằng cách gì?
Cả cái lẫn cách đều do Người lớn áp đặt. Bản chất giáo dục là áp đặt.
Chỉ có điều áp đặt như thế nào cho tự nhiên, tự nhiên như áp lực
không khí, tự nhiên như sức hút của quả đất. Giáo dục càng tự nhiên bao
nhiêu thì Trẻ em phát triển càng tự nhiên bấy nhiêu, và đó là phương án
tối ưu.
Bốn. cái chọn cho Bậc tiểu học hiện đại có thể hình dung theo 2 ví dụ
này (đã thực nghiệm tại Trường Thực nghiệm ở Hà Nội):
Tiếng Việt.
Lớp Một.
Cấu trúc ngữ âm của Tiếng.
Lớp Hai.
Từ – Ngữ - Câu. Viết thành câu.
Lớp Ba.
Viết đúng câu và không bao giờ viết sai câu.
Toán
Lớp Một.
Làm quen với ngôn ngữ tập hợp.
Số tự
nhiên – dãy số tự nhiên trên các Hệ đếm.
Phép toán đại số
Lớp Hai.
Các phép toán trên Tập hợp (Hợp, Giao, Hiệu).
Phép cộng và phép trừ.
Lớp Ba.
Tích Đề-các
Phép nhân và phép chia.
Các ví dụ này cho thấy, 4 phép tính số học cổ truyền nay chỉ còn là một “chi
tiết” trong chương trình Toán hiện đại, giống như cày chìa vôi thu lại thành
một “chi tiết” trong Bộ phận công tác của máy cày.
Năm. cách là cốt tuỷ của Nghiệp vụ sư phạm. Bậc tiểu học là nơi tinh
chất Nghiệp vụ sư phạm đậm đặc nhất, thuần khiết nhất và có sức mạnh quyết
định nhất.
Cách chẳng qua là quá trình, sẽ đọng lại thành sản phẩm (cái).
Nếu tổ chức và kiểm soát được quá trình thì sản phẩm là tất yếu. Quá trình
(cách) được thiết kế bằng các việc làm, thực thi (làm) bằng các thao tác.
Các sản phẩm vật chất làm bằng các thao tác vật chất / thao tác tay chân.
Làm ra khái niệm khoa học thì cần phải có các thao tác trí óc. Do đó,
đến trường học lớp Một, em lần đầu tiên được huấn luyện các thao tác trí óc
và học cách làm việc trí óc. Nhờ vậy, em tự làm ra sản phẩm giáo dục
cho chính mình, tức là ngay từ đầu, em đã học cách tự học. Toàn bộ
“bí quyết” của Nghiệp vụ sư phạm hiện đại được phân giải một cách tường
minh, thành một hệ thống thao tác, mà thao tác nào cũng đơn giản, chuẩn xác,
ai làm cũng được, ai làm cũng như ai.
Hơn bất
cứ bậc học nào khác, Bậc tiểu học chức trong bản thân mình hai đặc trưng cơ
bản của giáo dục hiện đại:
1.
Về mặt xã
hội chính trị – cả 100% dân cư đều được học.
2.
Về mặt
nghiệp vụ sư phạm – hễ ai được học thì học được, học gì được nấy, học đâu
được đấy.
Bậc tiểu học hiện đại phải là nền tảng vững
chắc nhất cho nền giáo dục hiện đại xây lên trên đó toà nhà với bất cứ tầm
cỡ nào.
III.
Định hướng xử lý thực tiễn
Xây dựng nền giáo dục hiện đại của thế kỷ XXI cũng như xây dựng một công
trình hiện đại: Dựa vào Định hướng cho thiết kế (một hình thức “ra đầu bài”)
mà thiết kế và đành phải trông cậy vào Năng lực thiết kế của
những cá nhân cụ thể.
Xử lý thực tiễn Bậc tiểu học hiện đại là xử lý các quan hệ trong từng cặp
phạm trù hiện đại, ví dụ:
Nhiệm vụ xã hội – chính trị / Nghiệp vụ sư phạm
Trưởng thành / Phát triển
Giáo dục / Tự giáo dục
Gia đình / Nhà trường
Tất cả những gì về mặt xã hội – chính trị cần xử
lý trong giáo dục thì phải trông cậy vào Nghiệp vụ sư phạm hiện đại
xử lý các mối quan hệ cơ bản nhất:
1. Quan
hệ Trưởng thành / Phát triển
Trẻ em sinh ra có đến 99,9% số gen giống nhau,
nhưng lớn lên không ai giống ai, mỗi cá nhân là duy nhất, có một không hai
trên thế giới. Quá trình “lớn lên” này có hai dòng cơ bản:
- Lớn lên về thể chất gọi là Trưởng thành.
- “Lớn lên” về tinh thần gọi là Phát triển.
Trưởng thành là một quá trình có bản tính tự nhiên
thiên nhiên, theo một lộ trình (chương trình) vạch sẵn từ trong bụng mẹ.
Phát triển là một quá trình tự tạo ở trong đời,
trong cuộc sống thực và chỉ có thể phát triển được, nếu Trẻ em sống trong xã
hội loài người và sống chung với người lớn. (Các bé chó sói đưa về nuôi có
trưởng thành, nhưng không phát triển theo kiểu người). Nói cách khác, không
phải là “dòng giống” hay bộ gen, mà Giáo dục / Tự giáo dục mới quyết định sự
phát triển của mỗi cá nhân cụ thể.
2. Quan
hệ giáo dục / Tự giáo dục
Giáo dục không có mục đích tự thân.
Tự giáo dục có mục đích tự thân, nhưng phải ở trong
lòng Giáo dục của người lớn, giống như thai nhi lớn lên trong lòng mẹ. Mối
quan hệ Giáo dục / Tự giáo dục là mối quan hệ có tính quyết định đối với đời
sống cá nhân, luôn luôn biến động và tuỳ thuộc vào lứa tuổi, vào thời đại…
Trẻ em
hiện đại
phát triển qua từng lứa tuổi. Mỗi lứa tuổi có mục đích tự thân (đóng vai trò
chủ đạo), tạo ra sản phẩm đặc trưng cho riêng mình, sau đó sản phẩm
ấy biến thành điều kiện, phương tiện… phục vụ cho bước phát triển của lứa
tuổi tiếp theo, ví dụ:
Từ 0 đến 6 tuổi, hình thành những gì có tính sống còn, kết thành tảng
liền vững chắc, ở tận nơi sâu nhất, kiên cố nhất của trí tuệ và tâm hồn, sẽ
mãi mãi đi theo em suốt đời.
Từ 6 tuổi trở đi, tất cả 100% trẻ em hiện đại phải đến trường, em sẽ học để
có thêm những gì chưa hề có, nhưng đã có trong nền văn minh đương thời
như là “nhân tố tự nhiên” của Cuộc sống thực hiện đại.
3. Quan
hệ giáo dục gia đình / Giáo dục nhà trường
Giáo dục gia đình / Giáo dục nhà trường, cả hai đều
không có mục đích tự thân, mà đều vì lợi ích cơ bản nhất của Trẻ em
là trưởng thành bình thường và phát triển tự nhiên. Nghiệp vụ sư phạm hiện
đại phải vì lợi ích cơ bản nhất của từng em cụ thể (không so sánh với em
khác) mà tổ chức quá trình tự giáo dục sao cho thật tự nhiên, không
đòi hỏi phải cố gắng. Tự giáo dục – việc này bé đã làm từ lúc lọt lòng, ví
dụ, tự bú… Rồi bé tự học các thao tác tay chân, học nói… tất cả đều
diễn ra tự nhiên, ngay trong cuộc sống thường ngày. Việc học càng tự nhiên
bao nhiêu thì càng vững chắc, càng đáng tin cậy bấy nhiêu.
Đừng
cưỡng bức bé, mà có khi phải
²chịu
thua²
bé đã, thì rồi sau mới mong sẽ giáo dục được bé.
ở trường,
tự giáo dục nghĩa là em tự làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình,
chỉ có điều, quá trình này được Thầy giáo tổ chức và kiểm soát sao cho sản
phẩm là tất yếu.
Giáo dục gia đình / Giáo dục nhà trường, cả hai đều
cùng tuỳ thuộc vào truyền thống và nền văn minh đương thời. Nền văn minh thế
kỷ XXI rồi sẽ có nền giáo dục của riêng nó, dù là giáo dục gia đình hay giáo
dục nhà trường, nhưng thời nào cũng vậy, giáo dục gia đình vẫn cứ diễn ra
tự nhiên, cuộc sống thực mách bảo gì nghe nấy. Còn giáo dục nhà trường
thế kỷ XXI thì ở trình độ tự giác cao hơn, Thầy giáo hiện đại hành nghề theo
Công nghệ học (cho các Môn học) hay Công nghệ giáo dục (cho
các Hoạt động), để cho em tự làm ra những sản phẩm đúng hay sản
phẩm gần đúng.
IV.
Nghiệp vụ sư phạm
Vì sự phát triển tự nhiên của Trẻ em hiện đại, giáo dục nhà trường phải có
nghiệp vụ sư phạm tìm giải pháp ngang tầm với nền văn minh hiện đại, bằng
cách xử lý các mối quan hệ cơ bản:
1. Mối
quan hệ
cái / cách là mối quan hệ cơ bản sống còn của một nền giáo dục, như bộ xương
của cơ thể.
Cái cấp cho sự phát triển có tầm quan trọng như cái cấp cho sự trưởng thành,
cùng đưa “năng lượng” từ ngoài vào, sao cho Trẻ em tiếp nhận nó một cách tự
nhiên, bình thường, như hít thở không khí. Vấn đề cốt tử đành rằng phải có
cái, nhưng có bằng cách nào đặc trưng cho nghiệp vụ sư phạm hiện đại, giống
như từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh, cứ đi thì rồi cũng đến, nhưng đi
bằng cách gì, - đi bộ, đi cáng, xe ngựa, xe đạp, xe máy, ô tô, tàu hoả, máy
bay?
Cái / cách là cốt thép của toà lâu dài giáo dục nhà trường hiện đại,
cũng là cốt thép của sự phát triển tinh thần (trong giáo dục, nói đến
phát triển thì hiểu là phát triển tinh thần, khác với sự trưởng thành về cơ
thể), do đó, là vấn đề cốt tuỷ của Nghiệp vụ sư phạm hiện đại.
Sự phát triển tinh thần nói chung cần những cái / cách riêng cho từng lĩnh
vực tinh thần: Khoa học – Nghệ thuật – Lối sống (Đạo đức – Lý tưởng – Niềm
tin – ý chí…). Nghiệp vụ sư phạm hiện đại không “sáng tạo”, mà chỉ chọn
lựa cái có sẵn (đã đạt đến hình thái chính thức, ổn định) trong
xã hội đương thời. Tường minh hơn cả là cái trong lĩnh vực khoa học,
ở đây
Cái là khái niệm khoa học.
Trong thực tiễn giáo dục, không phải hỗn độn một đống những cái riêng rẽ,
rời rạc, mà
Cái là một hệ thống khái niệm khoa học.
Hệ thống khái niệm khoa học này phải phản ánh trung thành nội dung – phương
pháp – tinh thần của khoa học ở trình độ đương thời (nhưng chỉ có những gì
đã đạt đến hình thái chính thức, ổn định).
Với cái – hệ thống (quen gọi là Chương trình môn học), Nghiệp vụ sư phạm
hiện đại phải dùng ba nguyên tắc để thiết kế:
1.Nguyên
tắc phát triển.
2.Nguyên
tắc chuẩn mực.
3.Nguyên
tắc tối thiểu.
Nguyên tắc chuẩn mực
đề ra yêu cầu phải tôn trọng
tính chính thống của nội dung giáo dục. Đương nhiên, chỉ là chính
thống tương đối, vì còn phụ thuộc vào năng lực thiết kế của người
chọn lựa. Rất có thể có các phương án “chính thống” khác nhau. Làm sao chọn
được dòng chính thống hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển của Trẻ em?
– Nghiệp vụ sư phạm dùng
Nguyên tắc phát triển để xác lập
2.
Mối quan hệ Mục đích / Phương tiện trong nội bộ hệ thống khái niệm được
chọn.
Thoạt
đầu, khái niệm A1 được hình thành với tư cách là Mục đích.
Sau đó A1 biến thành Phương tiện phục vụ cho Mục đích mới
A2. Như vậy, mỗi A có giá trị tự thân (với tư cách Sản
phẩm – Mục đích), đồng thời nó cũng có giá trị sử dụng (với tư cách
Phương tiện).
Chuỗi A1, A2, … An,… hình
thành dần theo lôgic nội tại. Chính nhờ sự chuyển hoá vừa tự nhiên
vừa tất yếu từ Mục đích (sản phẩm) sang Phương tiện, nên cả giá trị lẫn giá
trị sử dụng của khái niệm cùng mang lại cho em lợi ích cơ bản nhất là
sự phát triển của chính em. Vì vậy, việc học tự nó có sức hấp dẫn nội tại,
là nguồn hạnh phúc và niềm vui đích thực của em. Nhưng có cách gì đảm bảo
rằng bất cứ em nào cũng được hưởng Hạnh phúc đi học và Niềm vui đến trường?
– Nghiệp vụ sư phạm phải xử lý thêm
3. Mối quan hệ Đồng loạt /
Cá thể.
Giáo dục
nhà trường ra đời để đáp ứng nhu cầu tăng “năng suất” giáo dục bằng nguyên
tắc “Đồng loạt”: Một Thầy nhiều Trò.
Nay,
trong nền văn minh hiện đại, giáo dục nhà trường muốn nâng cao hơn “năng
suất” giáo dục thì lại phải “Cá thể hoá” quá trình giáo dục, đem lại hiệu
quả tối đa cho từng em học sinh. Nghiệp vụ sư phạm hiện đại xử lý “cứng”
bằng chương trình học, thiết kế theo nguyên tắc tối thiểu.
Chọn cái
tối thiểu đồng loạt sao cho để mỗi Cá thể có thể khai thác tối đa giá
trị của nó. Cái tối thiểu buộc phải chọn lựa là khái niệm khoa học
cơ bản trong Hệ thống khái niệm được chọn (Môn học). Ví dụ,
Môn Tiếng Việt bậc tiểu học có 4 khái niệm cơ bản:
Tiếng –
Từ – Câu và Ngữ.
Môn Toán bậc tiểu học có 4 khái niệm cơ bản:
Số – Phép toán – Phép cộng và trừ – Phép nhân và
chia.
Đã gọi là tối thiểu thì tất cả 100% học sinh đều phải học được,
học gì được nấy, học đâu được đấy. Việc này Nghiệp vụ sư phạm xử lý bằng
mối quan hệ Thầy – Trò trong nhà trường hiện đại.
4. Quan hệ Thầy - Trò
Thầy Khổng tử phát minh ra công thức kinh điển:
Thầy
giảng giải – Trò ghi nhớ
Thầy Khổng tử còn ở điểm xuất phát của lịch sử (do đó, của lôgic) nên Công
thức hành nghề ấy còn trừu tượng. Ngày nay, Thầy Khổng tử đã “phân
hoá” thành hàng vạn hàng triệu Thầy giáo cụ thể: Thầy toán, Thầy văn, Thầy
sử, Thầy địa… Tất cả làm thành Người Thầy tổng thể, mà mỗi Thầy giáo
cụ thể là một Người lao động sản xuất bộ phận có nghiệp vụ sư phạm.
Người Thầy tổng thể là một cấu trúc nhiều thành phần, mỗi thành phần
đảm nhiệm một chức năng, hình dung như một Cỗ máy có ba Thành
phần đảm nhận ba Chức năng:
Thành phần 1 – Nguồn lực
Thành phần 2 – Truyền lực
Thành phần 3 – Công tác
Nguồn lực
– Bộ phận thiết kế – thi công mẫu – ổn định công nghệ – xác lập mô hình –
chuyển giao.
Truyền
lực
– Bộ phận đào tạo – chỉ đạo để tiếp nhận.
Công tác
– Bộ phận thực thi trực tiếp – Giáo viên đứng lớp.
Vận hành theo “Cỗ máy” hiện đại này, quan hệ Thầy – Trò xác lập theo Công
thức mới:
Thầy
thiết kế – Trò thi công
* Thầy
thiết kế Hệ thống việc làm.
* Trò
trực tiếp làm từng việc, mỗi việc làm ra một sản phẩm xác định.
* Việc
làm liên hệ với cái – Sản phẩm.
* Cách
làm liên hệ với cách – Quá trình.
Mỗi việc làm thực thi bằng các thao tác.
Các thao tác phải đơn giản, chuẩn xác, ai cũng làm được, ai
làm cũng như ai (ai cầm đũa cũng như ai, ai dùng kéo cũng như
ai).
Trên cơ sở những thao tác chân tay học ở nhà đã thành thạo, đến
trường, học sinh lớp Một bắt đầu học (được huấn luyện) các thao tác trí
óc cho cách làm việc trí óc.
* Hệ
thống việc làm: thiết kế có tính đồng loạt.
* Mỗi học
sinh tự làm: thi công có tính cá thể.
Trên thực tiễn sư phạm, quan hệ Thầy – Trò triển khai theo quan hệ “công
việc” giữa Thiết kế – Thi công. Sản phẩm do mỗi học sinh tự làm ra có tính
“cá thể”, thì trước đó đã có tính “đồng loạt” dưới hình thức Bản thiết kế.
V.
Công nghệ học
Công
nghệ giáo dục
Nghiệp vụ sư phạm hiện đại tổ chức và Kiểm soát quá trình làm ra Khái
niệm thì được một sản phẩm hoàn chỉnh, dứt khoát, xong là xong, với một
giá trị đúng, có thể cân đo đong đếm. Nghiệp vụ sư phạm hiện đại còn
làm ra loại Sản phẩm giáo dục, gồm có phần tường minh (là khái
niệm, hành động, thao tác, các biểu hiện cảm tính…) và phần không tường
minh là phẩm chất cá nhân (động cơ, tình cảm, đạo đức, lương tâm…), thì
loại Sản phẩm giáo dục này thường có một giá trị gần đúng. Dù Nghiệp
vụ sư phạm hiện đại phân biệt hai loại sản phẩm, thì nói chung, bất cứ sản
phẩm nào làm ra ở Trường đều là Sản phẩm giáo dục, đều có đủ cả giá trị lẫn
giá trị sử dụng như một Sản phẩm lao động nói chung. Chỉ có điều, Giá trị
sử dụng, kể ra, cũng có ích thực tế, nhưng thế nào là thực tế? Mẹ
em đi chợ mua 3 con gà, ở nhà đã có 2 con, vậy bây giờ nhà em có mấy con gà?
Có ích gì cái “thực tế giả vờ” này? Rất có thể những “chuyện trên trời” lại
thực tế hơn chuyện dưới đất, ví dụ, con tàu vũ trụ ở trên trời mới đích thực
là con tàu vũ trụ có ích thực tế. Trong giáo dục hiện đại, lấy gì làm căn cứ
để đánh giá Sản phẩm giáo dục có ích thực tế?
- Nó tạo ra sự phát triển của em, chỉ có điều, sự phát triển này ở
mỗi thời một khác, tuỳ thuộc vào Cuộc sống thực đương thời. Chẳng hạn, thế
kỷ XVIII, trẻ em 6 tuổi đã đi làm để nuôi thân. Ngày nay, con 16 tuổi mẹ còn
giục “ăn thêm” cho cao lớn hơn.
Theo lý thuyết hoạt động chủ đạo, sự phát triển tự nhiên ở lứa tuổi tiểu học
đặc trưng bởi Lý trí, nhận thức, tư duy… Nếu hình dung Cuộc sống thực
ở lứa tuổi tiểu học như một bức tranh nhiều màu thì ánh sáng của Lý trí
chiếu lên nó sẽ làm biến đổi các màu sắc còn lại (nhưng người ta vẫn nhận ra
các màu đã có). Thuộc hoạt động chủ đạo, Lý trí có hai đặc điểm: một, bản
thân nó đang hình thành, hai, nó có sức mạnh bắt tất cả các nhân tố còn lại
phải biến đổi theo chiếc gậy chỉ huy của mình.
Một Hoạt động được “định nghĩa” bằng Đối tượng của nó. Đi qua lò
luyện hoạt động (quá trình hd), Đối tượng này sẽ biến thành Sản phẩm.
Như vậy, Đối tượng / Sản phẩm chẳng qua là hai trình độ phát triển khác nhau
trong một Hoạt động. Đối tượng có thể có hình thái vật thể, định hình như
một đồ vật. Vì vậy, cả tiếng Nga lẫn tiếng Pháp chỉ dùng một từ chung cho cả
Đối tượng và Đồ vật. Giá trị lý thuyết lớn nhất của lý thuyết hoạt động nằm
ở chỗ Đối tượng là kẻ mang Động cơ, hoặc Đối tượng là nơi hiện thân
của Động cơ. Động cơ quy định bản chất tâm lý của một Hoạt động: Hoạt động
vì động cơ gì? Vậy nên có thể căn cứ vào một Đối tượng cụ thể có hình hài,
để tổ chức và kiểm soát một Hoạt động làm ra Sản phẩm tâm lý.
Hoạt động học (việc học) có Đối tượng / Sản phẩm làm nên Lý trí. Lý
trí hiện đại được xây bằng khái niệm khoa học hiện đại. Nói cách khác,
Đối tượng / Sản phẩm của việc học là Khái niệm khoa học hiện đại,
được làm ra bằng chuỗi các thao tác trí óc sắp xếp tuyến tính
theo thời gian, gọi là công nghệ học. Một khi đã có Công nghệ học thì
dám cho học sinh là ra những Sản phẩm đích đáng nhất, là những khái niệm
khoa học, hơn nữa, phải là những khái niệm khoa học hiện đại của
Khoa học đương thời. Công nghệ học là quá trình biến Đối tượng A thành Sản
phẩm a:
A và a, cả hai cùng một bản chất khái niệm, chỉ khác nhau về hình
thái (cũng có thể nói khác nhau về trình độ phát triển trong giáo dục):
lúc đầu, A ở bên ngoài học sinh, cuối cùng, a ở trong đầu học sinh. Thiết kế
công nghệ học là thiết kế quá trình hình thành khái niệm, tức là thực thi sự
chuyển hoá biện chứng từ A đến a, qua các hình thái trung gian kế
tiếp nhau. Người thiết kế bắt buộc phải làm được việc phân giải một cách
tường minh các nhân tố cấu thành Công nghệ học, trên cơ sở phân giải các
nhân tố cấu thành khái niệm và mối liên hệ giữa các nhân tố
cấu thành ấy (gọi là mối liên hệ khái niệm) do chức năng (vai trò, vị
trí) của mỗi nhân tố cấu thành đảm nhiệm.
Trong giáo dục hiện đại, có thể lấy Công nghệ học làm điều kiện
cần để thiết kế quá trình làm ra Sản phẩm giáo dục. Quá trình này cũng
có thể tổ chức và kiểm soát như một công nghệ, gọi là Công nghệ giáo dục.
Trong nền văn minh hiện đại, dù là Công nghệ học hay Công nghệ giáo dục,
cũng đều quyết định bởi năng lực thiết kế. Năng lực thiết kế là sự
kết tinh thuần khiết của Nghiệp vụ sư phạm hiện đại, mà rút cục, có thể thâu
tóm vào một Công thức:
A
¾®
a
cho cả
Công nghệ học lẫn Công nghệ giáo dục.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Hồ Ngọc Đại
|