Giáo dục tại Việt Nam: Điểm thấp dành cho đảng - Education in Vietnam: Low grades for the party

Vietsciences-The Economist  - Phạm Hữu dịch  04/10/2010

 

 

 

 

Low grades for the party

The Communist Party’s grip is holding back the country’s best and brightest

WHEN Ngo Bao Chau won a Fields Medal, the mathematics version of a Nobel prize, it made headline news in his native Vietnam. The president sent a telegram of congratulations. Mr Chau is the first Vietnamese winner. But he does not ply his trade in Vietnam. Mr Chau is a professor at the University of Chicago and a naturalised citizen of France, where he completed his PhD.

Who can blame him? Vietnam’s university system is “archaic”, says Hoang Tuy, another mathematician. Teaching methods are outdated, universities are stuffed with cronies and smothered by Communist orthodoxy. Censorship and interference are pervasive.

For an emerging economy trying to build a technology sector, this is both discouraging and damaging. Top-notch research universities and innovative manufacturing go hand-in-hand. Vietnamese universities do little original research, and are rarely cited by scientific scholars, says a recent UN-financed study. Graduates are poorly prepared: as many as 60% of new hires by foreign companies needed retraining, according to a Dutch report.

Vietnam already spends more on education than its neighbours (see chart). Literacy rates are high, and parents sacrifice much to put their children through college. Enrolment at Vietnamese universities rose from about 900,000 in 2001 to over 1.6m by 2006. But most students study at lacklustre public universities or at private diploma mills. Those who can afford to go overseas. The best and brightest, like Mr Chau, rarely return.

Efforts to reform public universities have floundered. So the government has seized on the idea of creating four new research-oriented institutions from scratch, with foreign universities as partners and, crucially, promises of autonomy. The first of the new breed, the Vietnamese German University (VGU), opened in 2008 in Ho Chi Minh City. A French-backed technology school in Hanoi will follow.

VGU has around 220 students, enrolled in engineering and economics programmes which are taught, in English, by visiting German professors. Within ten years, it hopes to have 5,000 students. Its independent charter, a first for a Vietnamese university, allows it to hire professors and design its own courses. In theory this should boost academic freedom.

For the moment, VGU gets most of its money from Germany. Vietnam contributes a modest €365,000 ($500,000) a year. But it must eventually bear the running costs, which are forecast to reach €45-50m by 2030. Proper equipment and top-class professors do not come cheap. Vietnam’s government has to be willing to pay for global talent, otherwise VGU “will fail”, says Wolf Rieck, VGU’s president.

Luring back high-fliers such as Mr Chau would be a start. China faces similar problems but has managed to woo some overseas talent by appealing to patriotism and giving academics a chance to work in an innovative economy. It should not be hard. Professors might take less pay if it means being at the cutting edge of research. Most want to be closer to their families.

But academics in both China and Vietnam are hemmed in by political dogma. This is as much of a drag on higher education as low pay, says Professor Tuy, who retired two years ago as a maths professor on a salary of $250 a month. “A good scientist needs not only money but competent colleagues and academic freedom.”

 

 Điểm thấp dành cho đảng

Sự kiểm soát của đảng Cộng sản đang kìm nén những gì tốt đẹp, sáng láng nhất của đất nước.

30 tháng 9 2010 | TP Ho Chi Minh

Khi Ngô Bảo Châu giành một tấm Huy chương Fields, phiên bản toán học của giải Nobel, tin tức này xuất hiện nổi bật tại quê hương Việt Nam của ông. Chủ tịch nước gửi điện chúc mừng. Châu là người Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng này. Nhưng ông không lập nghiệp tại Việt Nam. Châu là giáo sư tại Đại học Chicago và là một công dân mang quốc tịch Pháp – nơi ông đã hoàn tất tấm bằng tiến sĩ.

Ai có thể quở trách ông? Hệ thống đại học của Việt Nam là “lỗi thời”, ông Hoàng Tuỵ, một nhà toán học nói. Phương pháp dạy lỗi thời, các trường đại học lèn chặn sinh viên và ngột ngạt bởi tính chất chính thống Cộng sản. Tình trạng kiểm duyệt và can thiệp tràn ngập.

Mặc dù có một nền kinh tế đang nổi lên cố gắng xây dựng một lĩnh vực công nghệ, thực trạng trên vừa làm nản lòng lại gây nên tổn hại. Các trường đại học nghiên cứu hàng đầu và hoạt động sản xuất sáng tạo luôn đi đôi với nhau. Các trường đại học của Việt Nam thực hiện được rất ít những nghiên cứu ban đầu và hiếm khi được các học giả khoa học trích dẫn, một nghiên cứu gần đây do LHQ tài trợ cho biết. Sinh viên tốt nghiệp chuẩn bị rất kém: khoảng 60% nhân viên mới của công ty nước ngoài cần được đào tạo lại, theo một báo cáo của Hà Lan.

Việt Nam đã chi tiêu cho giáo dục nhiều hơn các nước láng giềng (xem biểu đồ – chi tiêu công cho giáo dụ tính theo tỉ lệ % GDP những năm gần đây nhất). Tỉ lệ biết đọc biết viết cao, và các bậc phụ huynh hy sinh rất nhiều để con

cái học tới đại học. Tỉ lệ đỗ vào các trường đại học ở Việt Nam tăng từ   khoảng 900.000 người năm 2001 lên hơn 1,6 triệu người năm 2006. Nhưng phần lớn sinh viên học ở các trường đại học công mờ nhạt hoặc tại những trường tư chỉ chú trọng cấp bằng. Những người này có thể có đủ khả năng để ra nước ngoài. Những người giỏi nhất và sáng láng nhất, như ông Châu, hiếm khi quay trở lại.

Những nỗ lực để cải cách các trường đại học công đã tỏ ra rất lúng túng. Vì thế chính phủ đã chộp lấy ý tưởng thành lập bốn học viện mới theo định hướng nghiên cứu từ mớ tạp nham, với đối tác là các trường đại học nước ngoài và, quan trọng hơn cả là những lời hứa cho quyền tự chủ. Ra đời đầu tiên trong số cơ sở giáo dục mới này, là Đại học Việt – Đức (VGU), được mở cửa năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh. Một trường công nghệ do Pháp hỗ trợ tại Hà Nội sẽ được thành lập tiếp theo.

VGU có khoảng 220 sinh viên, theo học các chương trình kỹ sư và kinh tế dạy bằng tiếng Anh, có sự tham gia của các giáo sư người Đức. Trong vòng 10 năm, trường hy vọng sẽ có 5.000 sinh viên. Đặc quyền độc lập của trường, kiểu đầu tiên với một trường đại học Việt Nam, là cho phép trường thuê các giáo sư và tự thiết kế chương trình đào tạo. Về mặt lý thuyết, điều này sẽ thúc đẩy tự do học thuật.

Trong thời điểm này, VGU phần lớn lấy ngân sách từ Đức. Việt Nam đóng góp một khoản khiêm tốn 365.000 euro (500.000 USD) một năm. Nhưng rốt cục trường phải chịu các chi phí hoạt động, dự kiến là 45-50 triệu euro năm 2030. Chi phí cho trang thiết bị phù hợp và thuê những giáo sư hàng đầu không hề rẻ. Chính phủ Việt Nam phải sẵn sàng chi trả cho những tài năng có tầm cỡ toàn cầu, nếu không VGU “sẽ thất bại”, ông Wolf Rieck, Hiệu trưởng VGU nói.

Nỗ lực thu hút trở lại những tài năng như Châu sẽ là một khởi đầu. Trung Quốc cũng đối mặt với vấn đề tương tự nhưng đã giải quyết được việc thu hút một số tài năng nước ngoài bằng cách kêu gọi lòng yêu nước và tạo cơ hội cho các học giả được làm việc trong trong một nền kinh tế sáng tạo. Việc này không khó. Các giáo sư có thể nhận lương ít hơn nếu đó là môi trường nghiên cứu tốt nhất. Phần lớn trong họ đều mong muốn được sống gần với gia đình mình hơn.

Thế nhưng các học giả ở cả Trung Quốc và Việt Nam đều bị bao bọc bởi tín điều chính trị. Đây là một trở ngại chính trong giáo dục đại học, cũng như việc trả lương thấp, theo lời giáo sư Tuỵ, người nghỉ hưu từ hai năm trước với mức lương 250 USD/tháng của một giáo sư toán học. “Một nhà khoa học giỏi cần không chỉ là tiền, mà còn cần những cộng sự giỏi và tự do học thuật”.

 Asia

 

 

http://www.economist.com/node/17155668 http://anhbasam.com/2010/10/02/685-di%E1%BB%83m-th%E1%BA%A5p-danh-cho-d%E1%BA%A3ng/

* BS chú thích: Tạp chí The Economist là một trang tuần tin và ấn phẩm về quan hệ quốc tế xuất bản bằng tiếng Anh, thuộc The Economist Newspaper Ltd  và được biên tập tại các văn phòng ở Thành phố Westminster, London, do James Wilson sáng lập từ tháng 9 năm 1843. Năm 2009, lượng phát hành trung bình cho mối số là 1,6 triệu bản, một nửa được bán tại Bắc Mỹ (wikipedia).

 

         ©          http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org