Trong chuyến thăm Mỹ tháng 6.2005, Thủ tướng Phan Văn Khải
đã đề nghị một số trường ĐH hàng đầu của Mỹ giúp Việt Nam xây dựng
ĐH đẳng cấp quốc tế. Đáp lại yêu cầu này,
Ngài
Thomas Vallely - Giám đốc chương trình Việt Nam của ĐH
Harvard, người luôn
dành cho Việt Nam
sự quan tâm đặc biệt - đã soạn thảo một đề cương gửi đến Thủ
tướng và Chính phủ Việt Nam.
|
Ngài Thomas
Vallely. |
Như chính ông khẳng định "
Với
bản đề cương thảo luận này, chúng tôi mong muốn mở ra một cuộc
đối thoại; và mặc dù trong bản đề cương chúng tôi có đề cập tới
một số giải pháp tiềm tàng nhưng những chính sách cụ thể chỉ thoát
thai từ những cuộc thảo luận có cơ sở".
Với đúng tinh thần ấy, VietNamNet đăng tải bản đề cương thể hiện
rất nhiều tâm huyết với Giáo dục Việt Nam này, với mong muốn tạo
ra diễn đàn để những người Việt trong và ngoài nước có thể đóng
góp ý kiến, cùng thảo luận. Ý kiến mang tính đột phá của các bạn
sẽ được chuyển đến cho những người có trách nhiệm. Bởi mục đích
cuối cùng của tất cả chúng ta là: Giáo dục Việt Nam sẽ bứt lên để
cạnh tranh cùng thế giới.
XÂY DỰNG MỘT TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG ĐẦU
Ở VIỆT NAM
ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
Tổng quan
Bản đề cương này được soạn thảo
liên quan tới yêu cầu mới đây của Ngài Thủ tướng về việc xây dựng
một trường đại học hàng đầu ở Việt Nam. Chương trình Việt Nam tại
Harvard cho rằng cách tốt nhất để vươn
tới tầm nhìn của Ngài Thủ tướng là thông qua sự hợp tác giữa Chính
phủ Việt Nam và một nhóm những trường đại học hàng đầu của nước Mỹ.
Bản đề cương này gồm có bốn phần. Phần
đầu tiên phân tích một cách ngắn gọn những thách thức chính mà nền
giáo dục đại học của Việt Nam đang gặp phải. Phần hai xem xét
những cấu thành của một hệ thống giáo dục đại học hiện đại và
những nguyên tắc quản lý cơ bản quyết định tới sự thành công của
hệ thống giáo dục đại học. Phần ba chỉ ra những lựa chọn về chính
sách của Việt Nam. Phần cuối cùng đề xuất chiến lược xây dựng một
trường đại học mới, hàng đầu cho Việt Nam. Với bản đề cương thảo
luận này chúng tôi mong muốn mở ra một cuộc đối thoại; và mặc dù
trong bản đề cương chúng tôi có đề cập tới một số giải pháp tiềm
tàng nhưng những chính sách cụ thể chỉ thoát thai từ những cuộc
thảo luận có cơ sở.
I. Giáo dục đại học ở Việt
Nam: Sự cần thiết phải thay đổi
Giới học giả và người dân nói
chung cho rằng hệ thống giáo dục của Việt Nam chưa xứng đáng
với tiềm năng của chính nó cũng như kỳ vọng của xã hội. Ở đây
chúng tôi không đề cập tới vô vàn những vấn đề của hệ
thống giáo dục vì chúng đã được trình bày rất đầy đủ
qua các phương tiện truyền thông cũng như qua các bài phân
tích của các học giả nổi tiếng của Việt Nam.
Tình trạng đáng buồn của các
trường đại học của Việt Nam hiện nay một phần là do hoàn
cảnh lịch sử. Trong suốt thế kỷ 20, Việt Nam hầu như chưa
bao giờ có điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống
trường đại học chất lượng cao. Ngày nay, vấn đề
trực tiếp nhất của giáo dục đại học bắt rễ từ cơ chế
quản lý các trường đại học có tính tập trung và xơ
cứng. Các trường đại học của Việt Nam hầu như
không có quyền tự chủ. Nội dung chương trình về cơ bản
được áp đặt từ trên xuống, và vì vậy các trường gần như
không thể, hay không có động cơ cải tiến và đa dạng hóa
chương trình. Cũng tương tự như vậy, các cuộc thi tuyển
sinh và yêu cầu tốt nghiệp được áp đặt từ bên trên. Ở
cấp độ thể chế, hệ thống quản lý đại học vốn không thân
thiện với những sáng kiến mới là một lực cản đối với
các truờng đại học của Việt Nam. Nói chung, việc đề bạt
giảng viên không căn cứ vào năng lực và tài năng. Lương
thấp đã buộc nhiều giảng viên phải chạy việc thêm ở
ngoài, và do vậy giảm động cơ và khả năng đầu tư thời
gian cho các hoạt động phát triển chương trình và chuyên
môn. Một điều quan trọng là bối cảnh này đã ngăn
cản những nhà khoa học của Việt Nam được đào tạo từ
nước ngoài trở về nước để cống hiến cho đất nước.
Các vấn đề về dân
số cũng đặt thêm gánh nặng lên hệ thống. Trong chưa đầy 15
năm qua, số lượng sinh viên đại học đã tăng khoảng 10 lần.
Hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam chưa được chuẩn
bị để đáp ứng một cách thỏa đáng cho sự gia tăng sinh
viên này.
Sáng tạo tri thức là hoạt
động có tính toàn cầu, và trong lịch sử văn minh nhân
loại chưa bao giờ phát minh sáng chế lại nảy nở nhanh như
ngày nay. Việt Nam đã thành công trong việc khai thác những
sức mạnh này trong các lĩnh vực như xuất khẩu hàng công
nghiệp chế tạo, nông nghiệp, và thậm chí cả hội họa.
Tuy nhiên, các trường đại học của
Việt Nam hầu như đang đứng ngoài trào lưu chung của thế
giới. Rất hiếm giảng viên Việt
Nam có bài đăng trên các tạp chí được phản biện của thế
giới, vốn được coi là một thước đo phổ biến, tuy chưa
hoàn hảo, của thành quả nghiên cứu khoa học.
Ngoài chuyên ngành ngoại ngữ ra thì khả năng
sử dụng ngoại ngữ của giáo viên và học sinh rất thấp.
Điều kiện truy cập internet trong trường rất hạn chế. Hầu
như không có trường đại học nào của Việt Nam
nghĩ đến chuyện so sánh trường mình với các trường khác trong
khu vực, và càng không dám so sánh
(như ở Ấn Độ và Trung Quốc) với các trường đại học của phương tây.
Kết quả là có lẽ Việt Nam là nước
duy nhất trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á (trừ Myanmar)
không có trường chất lượng cao được quốc tế công nhận.
Những thách thức về thể chế giáo dục đại học không phải
chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, giáo dục đại học ở
Việt Nam đặc biệt so với các nền giáo dục khác trong khu
vực Đông Á ở chỗ Việt Nam chưa
hề có một trường đại học nào thành công trong việc khắc
phục các rào cản này.
Tầm quan trọng về kinh tế,
chính trị, xã hội của việc cải thiện một cách cơ bản
nền giáo dục đại học là hiển nhiên và không cần phải nêu
lại một cách chi tiết. Các đối thủ cạnh tranh chính của
Việt Nam về đầu tư và xuất khẩu đều có những trường đại
học ưu việt hơn. Do đó, đối với Việt Nam giáo dục
phải được xem là mối quan tâm hàng đầu của cả các nhà
làm chính sách kinh tế cũng như của các học giả.
Chính phủ Việt Nam luôn tuyên bố mục tiêu phát triển các
ngành công nghiệp có tính cạnh tranh với hàm lượng tri
thức cao. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng, nếu không có
những trường đại học chất lượng, mục tiêu này là bất
khả thi. Như Hiệu trưởng Lawrence H. Summers của trường ĐH
Harvard đã trao đổi với Ngài Thủ tướng trong cuộc hội đàm
ở Cambridge, các nhà kinh tế học đã ước lượng rằng
hơn 50% tăng trưởng thu nhập của nước Mỹ
trong thế kỷ trước là do những đóng góp của các phát
minh, sáng chế ra đời từ các phòng thí nghiệm, từ giảng
đường, và từ các thư viện của các trường đại học Mỹ.
II. Cơ chế quản lý – Cơ
sở của các nền giáo dục ưu tú
Chính từ sự thất bại của hệ
thống tổ chức giáo dục của Việt Nam mà GS. Henry Rosovsky
của trường ĐH Harvard chủ toạ cuộc hội thảo của các chuyên gia
cùng với Ngài Thủ tướng xem xét các biện pháp nhằm cải
thiện nền giáo dục đại học của Việt Nam.
Nhóm chuyên gia tập trung vào một vấn đề quan trọng nhất,
đó là cơ chế quản lý giáo dục đại học. Cơ chế quản lý
này quan trọng đến nỗi nó được ví như là ô-xy đối với
sự sống – cơ chế quản lý là nền tảng, là yếu tố tạo
nên sự sống cho giáo dục đại học.
Những nguyên lý cơ bản được chắt
lọc từ kinh nghiệm của các trường đại học ưu tú của Mỹ
về cơ chế quản lý hiệu quả bao gồm:
Tính độc lập:
Ở cấp độ thể chế, Trường đại học phải có quyền tự quyết trong
việc lựa chọn chương trình giảng dạy, các biện pháp tài trợ, và
các hoạt động khác.
Không gian học thuật:
Các học giả phải được tự do theo đuổi những nghiên cứu khoa học mà
không bị cản trở hay can thiệp thô bạo nào từ bên ngoài.
Ngay cả những phân tích có tính phê phán cũng phải được chấp nhận
một khi nó giúp soi sáng vấn đề.
Những sai sót trong học thuật không cần tới “kỷ
luật” có tính hành chính vì một khi được xuất bản, nó sẽ được các
học giả khác kiểm định lại.
Chế độ
trọng dụng nhân tài: Thăng tiến phải phụ thuộc vào tài
năng chứ không phải vào thâm niên hay các tiêu thức phi học thuật
khác. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng đối với giảng viên và những
người điều hành mà còn đối với việc lựa chọn sinh viên.
Không làm được điều này sẽ đẩy người giỏi đi chỗ
khác vì họ là những người lưu động và có nhiều lựa chọn nhất về
việc làm.
Ổn định về tài chính: Tiền là quan
trọng, đặc biệt trong một hệ thống quản lý tốt. Tài chính
nên được huy động từ nhiều nguồn, từ nhà nước cũng như từ bên
ngoài. Điều này giúp kết nối trường đại học với những người thụ
hưởng sản phẩm cuối cùng của nó – đó là những cơ quan tuyển dụng
sinh viên tốt nghiệp của trường. Nếu làm được điều này thì
sẽ có đủ nguồn tài trợ, với mức độ chắc chắn cần thiết trong dài
hạn để phục vụ cho các kế hoạch hợp lý và các hợp đồng dài hạn với
giảng viên.
Trách nhiệm giải trình:
Trường đại học phải có trách nhiệm
giải trình trước các bên hữu quan.
Hội đồng quản trị (được thảo luận trong Phần IV dưới đây)
là một cơ chế phổ biến nhằm đẩy mạnh trách nhiệm giải
trình. Với những thành viên được chọn lọc từ những
đại diện xuất sắc của cả khu vực công và tư, hội
đồng quản trị của trường đại học đóng vai trò như Ban giám
đốc trong việc hình thành tầm nhìn dài hạn cũng như thực
hiện các chức năng giám sát.
Càng ngày càng có một sự
nhất trí cho rằng những nguyên lý nêu trên chứa đựng những
điều kiện cần thiết để các trường đại học có thể thành
công. Việt Nam hiện còn thiếu những điều kiện này.
Tuy nhiên, bất chấp những thách thức hiện tại, nền giáo
dục đại học của Việt Nam đang có được những thuận lợi to
lớn. Không giống đa số những quốc gia đang phát triển
khác, Việt Nam đang có, và có khá dồi dào, hai cột
trụ của nền giáo dục đại học, đó là nhân tài và tiền.
Tuy các nguồn lực tài chính và các nhà trí thức là
những nguyên liệu cần thiết của một trường đại học hiện
đại, nhưng nếu chỉ có vậy thì chưa hề đủ. Những yếu tố
này cần được tổ chức một cách hiệu quả. Các chiến lược
để tận dụng một cách hiệu quả những nguồn lực cốt lõi
này sẽ được trình bày trong hai phần cuối của bản đề
cương này.
III. Các lựa chọn của
Việt Nam
Nói một cách khái quát, nền
giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay có ba lựa chọn:
phục hồi các trường đại học hiện có, hình thành các chi
nhánh hay các đơn vị vệ tinh của các trường đại học nước
ngoài, và xây các trường đại học mới hoàn toàn. Trên
thực tế, Việt Nam sẽ cần phải thực hiện cả ba chính
sách này. Chúng tôi cho rằng lựa chọn thứ ba – xây mới
một trường đại học chất lượng cao, đóng vai trò như một
hình mẫu và vườn ươm vốn con người – là đặc biệt quan
trọng. Kinh nghiêm cho thấy rằng việc cải cách các
trường đại học hiện có là một quá trình lâu dài khi sự
cố thủ của các nhóm lợi ích sẽ dần dần bị trung hòa.
Các trường và cơ sở đào tạo của nước ngoài có thể rất
hữu ích nhưng chắc sẽ không thể thực hiện vai trò của
một trường đại học nghiên cứu.
Trong các hệ thống giáo dục
đại học thành công, vị trí đỉnh cao thuộc về một
nhóm nhỏ các trường đại học hàng đầu, thường được gọi
là các trường “đại học nghiên cứu” vì chúng không chỉ
sáng tạo ra mà còn truyền trao tri thức. Ở nước
Mỹ, Trường Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts nằm trong
nhóm này. Hai trường ĐH Bắc Kinh và Thanh Hoa đóng vai trò
tương tự ở Trung Quốc, cũng như Viện Công nghệ Ấn Độ ở
Ấn Độ và Trường ĐH Thammasat ở Thái Lan. Mặc dù ở nhiều
nước, những trường hàng đầu như thế này chưa đạt tới tiêu
chuẩn quốc tế, nhưng ít nhất họ cũng luôn khao khát và
cố gắng vươn tới tầm cao này. Những trường này là
nơi thu hút những nhân tài xuất sắc nhất của quốc gia.
Học sinh tốt nghiệp từ những trường này được chuẩn bị
để có thể theo học ở những chương trình sau đại học hàng
đầu ở nước ngoài hay tham gia vào lực lượng lao động trong
vị trí của những viên chức nhà nước, doanh nhân, hay nhà
quản lý. Những trường đại học hàng đầu cũng đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống đại học quốc gia như là
những “phòng thí nghiệm” về phương pháp sư phạm, nhờ đó
những phương pháp và tài liệu giảng dạy mới ra đời và
có thể được áp dụng trong các trường đại học khác. Một
chức năng then chốt của các trường đại học hàng đầu ở
các nước như Ấn Độ và Trung Quốc (và chức năng này cũng
sẽ vô cùng thiết yếu cho sự thành công của các trường
đại học của Việt Nam) là thu hút
nhân tài được đào tạo ở nước ngoài về nước. Nếu không
có những trường đại học hàng đầu này, rất có khả năng
là những người này sẽ không trở về.
Việc phát triển một trường đại
học hàng đầu của Việt Nam cần được tiến hành song song
với việc cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục. Một
điều rõ ràng là những thay đổi từ từ, có tính chất
tiệm tiến là không thích hợp. Tri thức đang được
mở rộng theo cấp số nhân. Việt Nam càng muốn duy trì hệ
thống hiện tại với những thay đổi không đáng kể thì sẽ
lại càng gặp nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh phát minh
sáng chế phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã
hội của mình.
IV. Lộ trình tiến tới
xây dựng một trường đại học hàng đầu ở Việt Nam
Cơ hội
Chương trình Việt Nam thuộc
Trường Harvard đã tiến hành tham khảo ý kiến của một số
trường đại học hàng đầu của Mỹ, và các trường này đều
bày tỏ nguyện vọng có tính lâm thời rằng sẽ
tham gia một cách nghiêm túc trong việc xây dựng một trường
đại học hàng đầu ở Việt Nam.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng việc nhận được sự tham gia
của những trường như thế này không hề dễ dàng. Những
trường này không bao giờ dễ dãi trong việc hợp tác liên
kết với các đối tác bên ngoài, và không hiếm các trường
và quốc gia khác muốn có được sự hỗ trợ của họ.
Trên thực tế, ở khu vực Đông Nam Á, chỉ có Singapore là
đã thành công trong việc hợp tác với các trường đại học
hang đầu của Mỹ. Những trường đại học hàng đầu này không hề có ý
định đầu tư vào việc mở trường ở nước ngoài. Họ có thể đóng vai
trò cố vấn và đối tác về học thuật trong những nỗ lực xây dựng một
trường đại học mới của Việt Nam. Để
tranh thủ được sự ủng hộ của những trường đại học xuất
sắc của Mỹ thì Chính phủ Việt Nam cần phải thể hiện sự cam
kết mạnh mẽ đối với dự án đại học này.
Sự cam kết này gồm có hai yếu
tố. Thứ nhất là cam kết về tài chính. Chúng tôi cho rằng
trường đại học chất lượng cao cần một khoản ngân sách là
100 triệu đô-la Mỹ trong vòng từ 5-10 năm.
Như đã lưu ý ở Phần II, ở một trường đại học hàng đầu, không
nên kỳ vọng vào khả năng trang trải hoàn toàn chi phí hoạt động
của trường từ tiền học phí. Việc tìm được tài trợ từ nguồn
tư nhân và công cộng là rất cần thiết. Khía cạnh thứ hai của
sự cam kết là Chính phủ Việt Nam cần tuyên bố một cách dứt
khoát ý định tổ chức trường đại học mới này theo những
nguyên lý về quản lý như đã được trình bày trong Phần II.
Đảm bảo không chấp nhận thỏa hiệp đối với các
nguyên tắc học thuật là điều kiện tiên quyết thiết yếu
cho sự tham gia của các trường tinh hoa. Điều này
không hề đòi hỏi sự rút lui hoàn toàn vài trò của nhà
nước. Trái lại, nhà nước chiếm
một vị trí quan trọng trong giáo dục đại học như người
cung cấp tài chính và tạo lập khuôn khổ chính sách cho
các trường đại học hoạt động. Trong
trường hợp của Việt Nam, cần có sự chuyển dịch cơ bản
trong vai trò của nhà nước, từ người điều hành trực tiếp
sang một hình thức giám sát hạn chế hơn. Chẳng hạn,
tuyệt đối không nên ràng buộc trường mới bằng những hạn
chế chặt chẽ của hệ thống nhân sự hiện thời.
Trường này phải được phép tuyển chọn giảng viên trên cơ
sở thành tích họ đạt được và đãi ngộ theo mức lương
cạnh tranh quốc tế. (Điều kiện cuối cùng này có
thể nên đi kèm một số hình thức đãi ngộ về thuế thu
nhập.) Tất nhiên, những cơ chế mới này sẽ phải được thực hiện
trong khuôn khổ pháp lý của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có thể phải
ban hành một số quy định mới.
Khái niệm
Một số trường đại học nước
ngoài khác (như Thanh Hoa ở Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Cao
cấp Hàn Quốc) đã sử dụng các chuyên gia giảng dạy
và nghiên cứu nước ngoài hay liên kết với các trường đại
học lớn hơn để một mặt bù đắp được kỹ năng mà họ
thiếu, mặt khác có thể khắc phục được tính hẹp hòi,
cục bộ của các nhóm lợi ích trong nước. Vì vậy,
việc Việt Nam đi tìm những hình thức hợp tác tương tự
cũng là một điều hợp lý. Tuy nhiên, không một trường đại
học nước ngoài nào có thể đơn phương đảm nhiệm vai trò
là đối tác duy nhất trong nỗ lực thành lập một trường
đại học hàng đầu ở Việt Nam. Vì lý do này, chúng tôi đề
nghị cách tổ chức theo mô-đun, trong đó mỗi trường
đại học của Mỹ chịu trách nhiệm chính trong việc xây
dựng một nhóm chuyên ngành.
Những hoạt động khởi
đầu
Chúng tôi tin rằng bước đi
hợp lý đầu tiên sẽ là thành lập
một tổ chức đặc biệt với hai đồng chủ tịch bao gồm một
học giả lỗi lạc của Mỹ và một nhân vật xuất chúng của
Việt Nam. (Trong khuôn khổ của
bản Đề cương này, chúng tôi sẽ đề cập tới nhóm này dưới
tên gọi “Uỷ ban đặc biệt về giáo dục của Thủ tướng” với
nhận thức rằng tên gọi chính thức của nhóm sẽ do Chính
phủ Việt Nam chỉ định. Chẳng hạn, ủy ban quốc gia về giáo dục
do Ngài Thủ tướng làm chủ tịch có thể rất thích hợp với nhiệm vụ
này). Vị đồng chủ tịch người Mỹ sẽ là một người giàu
kinh nghiệm trong việc cộng tác với các trường đại học ở
ngoài nước Mỹ. Vị đồng chủ tịch người Việt Nam sẽ
phải là người am hiểu về giáo dục. Tuy nhiên, vì
sự khách quan và khả năng nhìn nhận vấn đề với con mắt
phê phán là điều cực kỳ quan trọng đối với dự án này
nên chúng tôi đề nghị vị đồng chủ tịch người Việt Nam
không nên là người hiện đang giữ các chức danh quản lý
trong hệ thống quản lý giáo dục hiện nay. Tất
nhiên trong Uỷ ban này sẽ có đại diện của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên
của Uỷ ban đặc biệt về giáo dục của Thủ tướng sẽ là
tập hợp sự lãnh đạo của trường đại học mới. Các thành
viên của Ủy ban này sẽ hợp tác với nhóm tích hợp hệ
thống để hình thành nhóm các trường đại học thành viên
và thiết kế cấu trúc tổ chức cho trường đại học mới.
Kinh nghiệm từ nhiều trường hợp khác nhau gợi ý rằng ban
đầu nên bổ nhiệm những nhà quản lý học thuật nước ngoài
vào những vị trí lãnh đạo quan trọng.
Có thể xem xét cấu
trúc trong đó hiệu trưởng là một học giả hàng đầu
của Việt Nam hoặc một nhà lãnh đạo cao cấp của nhà nước
đã về hưu, còn chức danh hiệu phó do một học giả giàu
kinh nghiệm của Mỹ phụ trách. Lý tưởng nhất là
chức danh hiệu phó này được giao cho một người đã từng
làm chức danh quản lý tương tự ở một trường đại học
hàng đầu của Mỹ.
Một điều cần thiết nữa là nên
sớm thành lập hội đồng quản trị. (Một số thành viên của
hội đồng có thể nằm trong Uỷ ban đặc biệt về giáo dục
của Thủ tướng). Hội đồng quản trị, một biểu trưng
của hệ thống quản lý trường đại học công và tư của Mỹ,
có nhiệm vụ giám sát các hoạt động của trường. Hiệu
trưởng nhà trường báo cáo trực tiếp với hội đồng quản
trị. Cơ chế này giúp đảm bảo trách nhiệm giải
trình và tuân thủ luật pháp, đồng thời bảo vệ trường khỏi
các can thiệp quá sâu từ phía các cơ quan quản lý nhà
nước và những ảnh hưởng khác từ bên ngoài. Hội đồng này
có thể bao gồm một số nhà lãnh đạo nhà nước đã về hưu,
các học giả Việt Nam và Mỹ, và những nhà doanh nghiệp
xuất sắc. Chúng tôi tin rằng cần thành lập một nhóm cố
vấn đặc biệt bao gồm các học giả nước ngoài với nhiệm
vụ cố vấn cho các vấn đề học thuật như chương trình, các
ưu tiên trong nghiên cứu, và bổ nhiệm giảng viên.
Uỷ ban đặc biệt về giáo
dục của Thủ tướng và ban lãnh đạo của trường đại học
mới sẽ phải giải quyết một số vấn đề then chốt trong
những giai đoạn đầu của dự án. Không thể có một trường
đại học hàng đầu chỉ trong một sớm một chiều, và vì vậy ngay từ
ban đầu cần phải xác định được một thứ tự ưu tiên. Cần
phải xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng với chất lượng quốc
tế. Và một điều hiển nhiên là các vấn đề về học thuật quan trọng
hơn nhiều so với cơ sở vật chất. Một trong những quyết định
đầu tiên sẽ là quyết định về
những loại hình đào tạo của trường đại học mới.
Để thu hút được những giáo viên giỏi nhất, trường cần
phải được trang bị các phương tiện nghiên cứu cần thiết
ngay từ đầu. Còn đối với hoạt động giảng dạy, có lẽ
chỉ nên bắt đầu với một chương trình đại học,
sau đó cùng với thời gian sẽ dần phát triển các chương
trình sau đại học. Một điều rất cần thiết nữa là chương
trình đại học nên bao gồm những môn học cơ bản chung giành
cho sinh viên của tất cả các chuyên ngành. Những chi tiết
này nằm ngoài khuôn khổ của bản đề cương này. Những
quyết định này cần được nghiên cứu và thảo luận thêm.