Trước nhu cầu phát triển của cuộc sống, người
Việt Nam chúng ta ai cũng mong muốn đất nước có
bước đột phá, mà đi đầu phải là giáo dục và đào
tạo- "động lực phát triển". Nhưng để có được
bước phát triển này, nền tảng của nó chỉ có thể
là những cơ sở giáo dục đại học có chất lượng,
đào tạo nguồn nhân lực cao, đáp ứng yêu cầu kinh
tế- xã hội thời hội nhập. Đặc khu tri thức, rất
có thể là mô hình đào tạo đáp ứng yêu cầu ấy.
Điều kiện cho "đặc khu tri thức": Quyền tự
trị rất cao
Có thể rất nhiều người lạ lẫm, chưa thật
thông khái niệm này, trong khi Việt Nam chúng ta
có tới gần 300 trường đại học và hàng trăm viện
nghiên cứu. Thực ra, đó cũng vẫn là loại hình
trường đại học giảng dạy- nghiên cứu khoa học có
chất lượng cao, mang tính "tiên phong" trong hệ
thống các trường đại học. Mục đích của cơ sở đào
tạo - nghiên cứu này, nhằm đào tạo ra những
người có trình độ và bằng cấp từ cử nhân đến
tiến sĩ, sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại
ngữ, có kiến thức tương đương với những người có
bằng cấp tương tự trên thế giới.
Để tạo ra được những cơ sở đào tạo như vậy,
chúng ta phải có cách nghĩ và cách làm khác về
cơ bản với những cách mà chúng ta đã và đang
làm. Điều này là không quá khó nếu ngành giáo
dục thực sự quyết tâm cao, táo bạo trong cách
nghĩ, cách làm và học hỏi kinh nghiệm của nước
ngoài, đặc biệt là của Mỹ.
Giáo dục đại học của Mỹ hiện nay được xem là
tiên tiến và có chất lượng nhất trên thế giới.
Căn cứ vào lịch sử hình thành và hoạt động của
những trường nổi tiếng như Bologna, Harvard,
Virginia, Cornell, Johns Hopkins..., chúng ta có
thể rút ra được những kết luận bổ ích.
 |
Đại học
Harvard - Mỹ |
Ví dụ, Đại học Harvard là một trường tư, được
thành lập năm 1636 với tên gọi "The college at
New Towne", được đổi tên thành Harvard College
vào ngày 13 tháng 3 năm 1639, sau khi John
Harvard hiến tặng cho trường một thư viện khoảng
260 đầu sách và khoảng phân nửa tài sản của ông
(gần gấp hai lần ngân sách của bang
Massachusetts lúc bấy giờ). Năm 1642, Harvard có
khóa sinh viên đầu tiên tốt nghiệp, gồm 9 người.
Đại học Virginia thành lập năm 1819, đi vào
hoạt động năm 1825 với 8 giảng viên. Còn Đại học
Cornell ra đời sau khi Tổng thống Lincoln ký
ban hành Đạo luật Morrill năm 1862, theo đó,
liên bang cấp đất cho các tiểu bang để xây dựng
các trường đại học công lập. Tuy nhiên, Ezra
Cornell - cổ đông lớn nhất của Western Union đã
hiến phần lớn tài sản của mình để xây dựng
trường.
Và Đại học Cornell là hình mẫu của việc kết
hợp giữa hoạt động từ thiện tư nhân và ngân sách
nhà nước. Điều kiện để các trường đại học này
phát triển thành những thương hiệu mạnh ngày nay
là họ có quyền tự trị rất cao.
Lịch sử hình thành và phát triển của các
trường đại học nổi tiếng ở Mỹ chỉ ra rằng: Dù là
trường tư hay trường công, dù quy mô lớn hay bé,
dù tiền của tư nhân hay của nhà nước, nhưng
nguyên tắc cơ bản để trường hoạt động phải là
độc lập, tự chủ, tập trung vào chuyên môn, không
ngừng sáng tạo. Đấy chính là những điều kiện để
"đặc khu tri thức" hình thành.
Làm thế nào để có "đặc khu tri thức" ở
Việt Nam?
Như vậy, để tạo ra "đặc khu tri thức", chúng
ta phải bắt đầu làm mới hoàn toàn, không nên dựa
vào cơ sở hay nền tảng một trường đại học nào
đó, vì tính bảo thủ, tính ổn định và sức ì của
giáo dục truyền thống. Trước hết, cần phải có
đất đai và kinh phí ban đầu. Đất thì đương nhiên
là của nhà nước. Còn tiền, có thể có từ nhiều
nguồn đầu tư, từ vốn đi vay, từ ngân sách, từ sự
đóng góp tự nguyện của những người giàu có mong
muốn làm cái gì đó cho giáo dục.
Hiệu trưởng, đội ngũ giảng viên ở những đặc
khu tri thức, đa số phải là giảng viên ở các
trường đại học ngoài nước, giảng viên Việt kiều
(loại giỏi), còn lại là giảng viên, cán bộ
nghiên cứu được lựa chọn, được mời từ các trường
đại học và các viện nghiên cứu hiện nay.
 |
Đại học
Tổng hợp Hà Nội |
Cách làm này, có thể không "thuần khiết" lắm,
nhưng nó cho phép "đặc khu tri thức" hình thành
nhanh chóng. Trong điều kiện hiện nay, có thể
tiến hành theo cách thứ hai vì trong đội ngũ trí
thức, có một số người hiểu rất rõ cần phải sống
và làm việc khác đi, cần phải dạy và nghiên cứu
khoa học theo cách mới, cần phải tập trung vào
chuyên môn, tránh hội họp vô bổ... Nếu những
người này được huy động vào "đặc khu tri thức",
họ sẽ làm việc theo phong cách mới.
Hoạt động chủ yếu của "đặc khu tri thức" là
nhằm lĩnh hội, truyền đạt và tạo ra tri thức
mới. Tri thức sẽ là nguồn tài nguyên cơ bản
trong thế kỷ XXI. Khác với những loại tài nguyên
thông thường khác là khi sử dụng, chúng bị hao
mòn và mất đi; tài nguyên trí thức càng được sử
dụng, càng tăng lên. Vì vậy, việc đầu tư vào
"đặc khu tri thức" là đầu tư để khai thác nguồn
tài nguyên hữu ích và dường như vô tận.
Tuy nhiên, cách sử dụng vốn như thế nào cho
có hiệu quả lại là vấn đề đáng bàn, vì chúng ta
đã từng làm, nhưng không mang lại hiệu quả như
mong muốn. Cách gộp nhiều trường đại học lại
thành Đại học Quốc gia và Đại học vùng là một ví
dụ. Thậm chí có người cho rằng, cách làm này đã
huỷ hoại trường đại học Tổng hợp Hà Nội vốn đã
có vị trí trong khu vực vào những năm bảy mươi
của thế kỷ XX.
Việc tạo dựng "đặc khu tri thức" phải được
nhận thức đầy đủ và rõ ràng. Có một điều được
xem như một nguyên tắc, đó là việc thực hiện sự
độc lập và quyền tự chủ, tự trị để "đặc khu tri
thức" phải là nơi "ngự trị" của trí tuệ; không
gian rộng mở của tự do sáng tạo; nơi sử dụng
kiến thức và công nghệ để giải quyết những vấn
đề dân sinh.
Cốt lõi khái niệm "học tập" của "đặc khu tri
thức" là biến những dữ kiện thành thông tin có
ích; biến thông tin thành kiến thức có ích; biến
kiến thức thành sự phán xét có ích. Do vậy, quá
trình học tập này phải được tiến hành một cách
tự trị cao, dân chủ, dựa trên cá tính sáng tạo
của từng cá thể. Học cái gì, học như thế nào là
do mỗi cá nhân lựa chọn.
Ở đây cần nhớ lại tuyên bố của ông A. D.
White - Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học
Cornell: "Ngành học ra đời từ những nghiên cứu
mà người ta ưa thích chứ không phải từ những
nghiên cứu mà người ta miễn cưỡng phải làm".
Để tạo "đặc khu tri thức", có nhiều việc phải
làm, nhiều điều phải chú ý, trong đó đừng quên
khuôn viên nội trú có vai trò cực kỳ quan trọng.
Phải nói tới điều này bởi vì hiện nay hầu như
không có một trường đại học nào của Việt Nam có
khuôn viên nội trú xứng tầm "đặc khu tri thức".
Do vậy, xây dựng mới hoàn toàn là điều bắt buộc.