Một trong những
vai trò quan trọng của giáo dục phổ thông là đào tạo học sinh hội đủ
các yếu tố của bốn kiểu người học: (1) người học hiểu biết có
thể tiếp nhận lượng kiến thức mà họ được truyền thụ và sử dụng nó vào
trong cuộc sống để giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định, (2)
người học tự chủ có thể tự tin và có năng lực để am hiểu và sử
dụng được các công cụ cần thiết cho việc học tập của họ, (3) người
học chiến lược sở hữu các chiến lược suy nghĩ và học tập hiệu quả
để sử dụng cho việc tiếp thu kiến thức mới, và (4) người học đồng
cảm có thể đặt mình vào hoàn cảnh của người khác và của cộng đồng.
Ngoài ra, theo quan điểm của Benjamin Bloom và đồng nghiệp (1956,
1964), để có thể trở thành người học có năng lực, học sinh phải được
phát triển ba yếu tố về nhận thức, thể chất và tình cảm một cách toàn
diện khi các em có thể thay đổi suy nghĩ, cảm xúc và hành động của
mình. Trong quá trình nhận thức, ông Bloom cho rằng sau khi học sinh
tiếp nhận kiến thức, các em phải hiểu, có khả năng ứng dụng, phân
tích, tổng hợp và đánh giá kiến thức đó.
Tuy nhiên, các
giáo trình truyền thống ở Bắc Mỹ từ thập niên 70 trở về trước không
đáp ứng yêu cầu này vì chúng truyền tải một lượng kiến thức lớn dành
cho việc đào tạo những “bách khoa toàn thư di động”, không giúp học
sinh thấy được mối quan hệ lịch sử, tính tầng bậc và khả năng ứng dụng
của kiến thức. Chương trình truyền thống yêu cầu học sinh phải am
tường kiến thức học được trong lớp. Học sinh không hiểu được tại sao
các em phải học lượng kiến thức như vậy, có chăng chỉ là để đối phó
với điểm số cuối năm chứ không phải để ứng dụng vào cuộc sống và sản
sinh ra kiến thức mới. Năm 1989 Lauren Resnick lần đầu tiên đề cập đến
thuật ngữ “chương trình giảng dạy suy nghĩ” (thinking curriculum) và
nhấn mạnh rằng chương trình này phải thể hiện mối liên kết chặt chẽ
giữa nội dung kiến thức và tiến trình tiếp thu, nhằm đào tạo học sinh
có kỹ năng suy nghĩ và học tập độc lập thông qua các bài tập gần gũi
trong thực tiễn cuộc sống. Các tiến trình học tập và suy nghĩ sẽ được
lồng ghép thông qua các bài học trong lớp và học sinh sẽ được phát
triển chiến lược học bậc cao và các kỹ năng giải quyết tình huống,
đánh giá, tương phản - so sánh và đưa ra quyết định. Các bài tập được
thiết kế từ dễ đến khó dần, đòi hỏi học sinh phải vận dụng khả năng
suy nghĩ từ cấp độ thấp đến cao trong suốt khóa học. Nhìn chung,
chương trình giảng dạy mới này có năm đặc điểm sau: (1) tối đa hóa
phương thức học tập đào sâu ở học sinh (students’ in-depth learning),
(2) nội dung và tiến trình học tập được lồng ghép trong các bài học và
các bài tập gần với thực tiễn, (3) các bài tập với mức độ khó tăng dần
được thiết kế nhằm phát huy khả năng tổng hợp các kỹ năng riêng lẻ của
học sinh, (4) các bài học thú vị tạo cơ hội cho học sinh liên hệ với
kiến thức được tích lũy từ trước hay từ nền tảng cá nhân của các em,
và (5) rèn luyện cho học sinh nếp suy nghĩ rằng học tập để phục vụ các
em không những trong môi trường học đường mà còn cho cả cuộc sống thực
tế. Ông Resnick nhấn mạnh rằng một trong những nhiệm vụ chính của giáo
dục phổ thông là giáo dục học sinh cách suy nghĩ và ông cho rằng tiến
trình học tập là tiến trình của sự suy nghĩ.
Khi khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển, nhu cầu học tập cách sử dụng công nghệ và
thiết bị hiện đại cùng với việc sản sinh kiến thức mới ngày càng đòi
hỏi cao hơn. Các câu trả lời cho câu hỏi “Cái gì?” và “Tại
sao?” có thể được tìm hiểu qua sách báo, bài giảng hay cơ sở dữ
liệu. Câu trả lời cho câu hỏi “Ai phải làm cái gì?” và “Làm
như thế nào?” xuất phát từ chính nhu cầu người học muốn tìm câu
trả lời để vận dụng nó vào trong cuộc sống. Ngoài ra, kiến thức vốn có
mối liên hệ lẫn nhau và giáo viên không thể cung cấp cho học sinh các
mẩu kiến thức rời rạc. Vì vậy, chương trình giảng dạy suy nghĩ sẽ tạo
cơ hội cho học sinh phát huy tính sáng tạo, tìm tòi và cung cấp cho
các em một chuỗi các kiến thức liên quan lẫn nhau giữa các môn học và
giúp học sinh phát triển kỹ năng suy nghĩ phức hợp và toàn diện. Các
bài tập được thiết kế gần với cuộc sống hiện tại và sau này của học
sinh, vì thế kỹ năng “suy nghĩ về các vấn đề ngoài học đường”
(out-of-school thinking) phải đáp ứng bốn yếu tố sau: (1) các bài tập
phải được đặt trong tình huống thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng
đồng thời các kỹ năng suy nghĩ lô-gíc và phê bình, khả năng đánh giá
và giải quyết vấn đề, và đưa ra quyết định, (2) kiến thức học được một
phần nhờ vào sự trao đổi cùng với các cá nhân có liên quan đến bài
tập, có thể là bạn học, giáo viên, gia đình hay cộng đồng, (3) học
sinh sẽ nhận được sự trợ giúp từ các công cụ giáo dục như tài liệu
tham khảo, máy tính hay các phương tiện kỹ thuật khác, và (4) các khái
niệm trong bài học phải liên quan mật thiết đến các vật thể, sự kiện
hay tình huống có thật. Các kỹ năng suy nghĩ cần thiết khác cũng được
nhấn mạnh bao gồm kỹ năng sáng tạo, thái độ học tập tích cực và hiệu
quả, khao khát tìm hiểu các vấn đề mới, kiên nhẫn, hiểu biết và đánh
giá đúng đắn các quan điểm khác nhau. Do vậy, để đáp ứng được các yêu
cầu giáo dục này, chương trình giảng dạy đào tạo cách suy nghĩ phải là
sản phẩm nghiên cứu của những người có chuyên môn, của cha mẹ, nhà
trường và của cả cộng đồng.
Các nghiên cứu
giáo dục cho thấy rằng trẻ em và những học sinh có mức học kém vẫn có
thể làm tốt các bài tập mang tính tổng hợp ở một mức độ nào đó, vì vậy
một số người có thể hiểu sai khi nghĩ rằng các em này không thể theo
kịp loại giáo trình mang tính phức hợp này. Các bài tập được thiết kế
không nhằm yêu cầu học sinh giải quyết dựa trên các kỹ năng hay kiến
thức đơn lẻ, mà nó phải giúp các em tổng hợp và phân tích các kiến
thức có sẵn để giải quyết tình huống bởi vì trong thực tế chúng ta
không thường giải quyết các vấn đề mà chỉ dựa vào một hoặc vài kỹ năng
đơn lẻ. Cách phân loại, đánh giá, so sánh, diễn giải, phê bình, phân
tích hay chứng minh thường được vận dụng đồng thời mà đôi khi chúng ta
không nhận thức ra hoặc không thể gọi tên các tiến trình này. Trong
giáo trình đào tạo sự suy nghĩ, mức độ khó của các bài tập sẽ tăng dần
trong suốt khóa học, và thông thường làm việc theo nhóm sẽ giúp các em
chia sẻ kiến thức và quan điểm của nhau. Tài liệu và nội dung giảng
dạy sẽ được thiết kế nhằm tối đa hóa cách suy nghĩ tổng hợp của các em
dựa trên kiến thức đã được xây dựng từ trước, từ các bạn học hay môi
trường xung quanh và định hướng cách phán đoán những gì sẽ xảy ra kế
tiếp nếu yếu tố này tác động đến yếu tố khác. Chương trình này cũng sẽ
tạo cơ hội cho học sinh đánh giá những khó khăn mà các em gặp phải
trong và ngoài lớp học. Các em sẽ tự mình đánh giá các chiến lược học
tập của mình và có thể tìm hiểu các phương pháp tốt hơn dưới sự hướng
dẫn của giáo viên. Bên cạnh việc truyền đạt nội dung cần thiết phù hợp
với lứa tuổi, giáo trình đào tạo cách suy nghĩ cũng giúp rèn luyện
cách học tập độc lập để kích thích nhu cầu tìm hiểu của học sinh, giúp
các em hiểu được tại sao mình phải học những nội dung trong giáo trình
đó.
Các chuyên gia
giáo dục cũng rất quan tâm đến những kiến thức và kinh nghiệm của các
học sinh trong lớp học, và họ luôn khuyến khích giáo viên tạo cơ hội
cho các em được thể hiện những gì mình biết để cùng trao đổi với những
người xung quanh. Giáo trình này, do vậy, sẽ có thuộc tính mở (open),
thay vì đóng kết, để người dạy và học có thể bổ sung những điều mà họ
quan tâm và cảm thấy hữu ích. Đây cũng là vấn đề đang được bàn cãi rất
nhiều vì một số lý do sau. Thứ nhất, thông thường một giáo trình giảng
dạy ở bậc phổ thông phải được thống nhất và kiểm duyệt trong khung
chương trình đào tạo do bộ giáo dục các nước, hoặc sở giáo dục ở các
bang kiểm soát. Nếu không đảm bảo được tính thống nhất, khoa học và
xác thực, chính các em học sinh sẽ phải chịu thiệt thòi về kiến thức
và điểm số trong các kỳ thi quốc gia, tỉnh hay toàn liên bang. Thứ
hai, hạn chế về thời gian lên lớp cũng như năng lực của giáo viên
không cho phép các cá nhân có thể dạy và học những gì họ muốn một cách
hoàn hảo. Tuy nhiên, đặc điểm mở của giáo trình này nhằm phát triển
cách tiếp nhận các quan điểm khác nhau, nhấn mạnh vào kỹ năng giao
tiếp giữa các cá nhân và rèn luyện các em phương thức trình bày hay
bảo vệ quan điểm trước công chúng. Do vậy, việc phát triển ngôn ngữ và
năng lực toán học đóng vai trò quan trọng trong tiến trình học tập và
rèn luyện cách suy nghĩ của học sinh.
Các môn học liên
quan đến ngôn ngữ phải giúp học sinh sử dụng ngôn ngữ như là phương
tiện để giao tiếp và nhận thức một cách hữu hiệu chứ không phải là
việc ghi nhớ bảng liệt kê các sự kiện, thông tin, bài viết hay con số.
Ngoài những nội dung truyền thống, chương trình mới này có thể sử dụng
các nguồn tài liệu đa dạng từ các nền văn hóa khác nhau đã được kiểm
duyệt, từ ti vi, các báo cáo kỹ thuật hay thậm chí cả bài viết của các
bạn học, và học sinh nên được cho nhiều cơ hội để có thể thảo luận về
các bài viết này. Vì vậy, cách giảng dạy cũng phải được thay đổi, tập
trung nhiều vào phương pháp lấy người học làm trung tâm, giúp học sinh
có thể hiểu được kiến thức và vận dụng ngay vào cuộc sống. Học sinh
phải được hướng dẫn các tiến trình để viết được một bài luận như tìm
ý, viết nháp, chỉnh sửa và cùng trao đổi với bạn học và giáo viên.
Những môn học liên quan đến môn toán phải giúp học sinh tự tin và có
khả năng giải quyết vấn đề, lý giải và đánh giá các hiện tượng có thật
xảy ra xung quanh các em. Tiến trình lý giải một vấn đề toán học không
chỉ đơn thuần là tìm ra câu trả lời đúng, mà nó còn giúp rèn luyện khả
năng phỏng đoán, tập hợp dữ liệu, bằng chứng và lập luận. Giáo viên có
thể tăng cường luyện tập cách luận giải quy nạp bằng cách tạo ra tình
huống, và học sinh phải tổng quát hóa các mối quan hệ giữa các đơn vị
hay thành phần toán học thông qua việc tìm hiểu các thuộc tính chung
của sự vật hay vấn đề. Giáo viên có thể hướng dẫn các em cách suy luận
diễn dịch bằng cách sử dụng ngôn ngữ lô-gíc như “và”, “hoặc”
và “không”, và dạy các em những chiến lược xây dựng các ví dụ
đối nghịch để có thể đánh giá các cách giải quyết khác nhau cho một
tình huống. Môn toán phải được xem như là một ngôn ngữ giải quyết vấn
đề thông qua những ký hiệu, biểu tượng, thuật ngữ và các quy tắc luôn
có liên quan đến lịch sử, văn hóa và khoa học. Ví dụ như các em phải
hiểu được thế giới vật lý đã thay đổi như thế nào từ thời của ông
Aristotle đến Galileo, Newton và đến Einstein dưới những tác động của
chính trị, lịch sử, khoa học và xã hội. Ở bậc phổ thông, toán không
nên là môn học “giết người” với các khái niệm trừu tượng đối với các
em, mà nó phải được xem như một hoạt động tự nhiên và sáng tạo của trí
óc con người, và chúng ta luôn gặp nó trong cuộc sống ví dụ như kích
cỡ, giá tiền, hay đường đi của xe lửa trong trò chơi cảm giác mạnh ở
công viên, v.v…
Để phát triển yếu
tố tình cảm của học sinh trong quá trình nhận thức như ông Bloom
(1956, 1964) đề xướng và kích thích niềm đam mê khoa học cũng như thái
độ học tập tích cực của các em, chương trình giảng dạy này phải đáp
ứng sáu yếu tố sau. Thứ nhất là học sinh phải được dạy cách trân trọng
các nghiên cứu hay phát minh khoa học mà các em đã và sẽ ứng dụng hữu
ích trong cuộc sống. Thứ hai, các em phải biết đánh giá cao và có khả
năng suy luận lô-gíc trong việc tập hợp và phân tích các tranh luận
khoa học trong môn học. Thứ ba, các em phải được rèn luyện tính chân
thật và ham hiểu biết khi làm các thí nghiệm hay nghiên cứu ở trình độ
các em. Thứ năm, các em phải được giáo dục cách mở rộng tư tưởng khi
tiếp nhận các quan điểm mới. Cuối cùng, các em cũng phải được phát
triển tư duy phê bình và luôn đặt nghi vấn về các quan điểm mới để có
thể đưa đến kết luận cho riêng mình. Tựu trung lại, chương trình này
nhằm đào tạo học sinh khả năng suy nghĩ bậc cao (high-order thinking)
với khả năng suy nghĩ để tiếp thu, hình thành quan điểm và suy nghĩ
phê bình. Hay nói cách khác, chương trình giảng dạy phải giúp các em
biết cách “suy nghĩ về suy nghĩ” (meta-thinking), tức là các em phải
hiểu tại sao các em nghĩ rằng tại sao Newton cho rằng trái táo lại rơi
xuống đất. Một khi các em có khả năng suy nghĩ ở bậc cao này, rất có
thể các em sẽ tự mình cơ cấu hóa lại kiến thức cho riêng mình mà không
cần phải học thuộc lòng cấu trúc tầng bậc của các dữ kiện. Đây chính
là am hiểu thật sự. Để có thể suy nghĩ bậc cao, các em phải được giúp
rèn luyện cách suy nghĩ phê bình, phát triển tranh luận, giải thích dữ
liệu, trình bày vấn đề, đưa ra quyết định cá nhân, tiếp nhận ý kiến
người khác và bảo vệ chính kiến của mình.
Nói tóm lại, có
nhiều yếu tố tác động tích cực đến tiến trình học tập của học sinh ví
dụ như các quy chế giáo dục, cơ sở vật chất, phương pháp giảng dạy hay
cách kiểm tra đánh giá học sinh. Trong phạm vi chương trình giảng dạy
cách suy nghĩ, giáo dục phải đào tạo ra người học có kiến thức học
đường và xã hội với sự hiểu biết đa văn hóa. Theo ý kiến của tác giả
bài viết này, giáo trình giảng dạy, do đó, phải đảm bảo được hai yêu
cầu tối thiểu: mở (open) và bền vững
(sustainable). Yếu tố nguồn mở để giúp giáo viên (những người trực
tiếp phân phối sản phẩm) và học sinh (những người tiêu thụ sản phẩm)
có thể đóng góp ý kiến và đề nghị trực tiếp vào quá trình biên soạn
nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cuộc sống của người dạy và học tại
địa phương. Thuộc tính mở không nhằm phức tạp hóa hay mở rộng cổng
kiểm soát nội dung và phương pháp. Đặc tính này cũng không có nghĩa là
phủ nhận hay loại bỏ các giáo trình hiện hữu. Nó nên được hiểu như
phạm vi cho phép người dạy và học có thể uyển chuyển, tự do và chọn
lọc các tài liệu và phương pháp mà họ có phần đóng góp, quyết định
trong đó. Yếu tố bền vững phải đảm bảo tính lâu dài và tiết kiệm về
tài chính, thời gian và công sức trong quá trình biên soạn vì một tài
liệu giảng dạy không thể bị bỏ đi chỉ sau một khoảng thời gian ngắn sử
dụng. Thay vì vậy, theo quy định của khung chương trình đào tạo chung,
yếu tố mở sẽ cho phép người sử dụng bổ sung thành phần cần thiết, loại
bỏ hay thay đổi những nội dung hay phương pháp không phù hợp trong
hoàn cảnh của họ. Do vậy, yếu tố mở sẽ giúp cho các người biên soạn
(gồm chuyên gia soạn sách giáo khoa, các nhà lãnh đạo giáo dục, giáo
viên, học sinh và cộng đồng địa phương) có thể cùng nghiên cứu và cập
nhật loại kiến thức và phương pháp giảng dạy phù hợp trong nhiều tình
huống khác nhau. Giáo viên sẽ được cung cấp các sự đa dạng này bên
cạnh giáo trình hiện có để họ có thể tham khảo thêm. Đây chính là yếu
tố đảm bảo tính bền vững của một chương trình giảng dạy khi giáo viên
có được một nguồn tham khảo mở mà họ có thể áp dụng vào thực tế bất cứ
khi nào. Hai đặc điểm mở và bền vững này
nghe có vẻ trái ngược nhau, nhưng chúng thật sự có mối quan hệ bổ sung
và song hành. Ngoài ra, kiến thức vốn có mối quan hệ lịch sử và mang
tính tầng bậc, vì vậy, các môn học tất yếu phải có mối quan hệ lẫn
nhau. Trong suốt khóa học, học sinh nên được cho các bài tập ôn luyện
với mức độ khó tăng dần để liên hệ với kiến thức đã học qua và giúp
các em trao đổi những kiến thức xã hội mà các em có được.
NGUYỄN HỒNG CHÍ
Tài
liệu tham khảo
Bloom, B., Mesia, B. B., & Krathwohl,
D. R. (1964). Taxonomy of educational objectives. New York:
David McKay.
Jacobs, H. H. (1989).
Interdisciplinary curriculum: Design and implementation.
Alexandria, VA: Association for Supervision and Curriculum
Development.
Newmann, F. M. (1989). The
relationship of classroom thoughtfulness to students’ higher order
thinking: Preliminary results in high school social studies.
Madison, WI: National Center on Effective Secondary Schools.
Resnick, L. B., & Klopfer, L. E.
(1989). Toward the thinking curriculum: Current cognitive research.
Alexandria, VA: Association for Supervision and Curriculum
Development.