I. Biết suy luận, hay sáng tạo?
Trước tiên, tôi muốn tìm hiểu cụm từ
"tư duy sáng tạo" mà một số người Việt Nam đang dùng hiện nay, nghĩa là
gì ? Nói giáo dục đào tạo ra những người "biết suy luận" – (có người gọi
là có "tính chủ động tư duy") – thì tôi hiểu. Còn từ "sáng tạo" thì tôi
hiểu theo nghĩa là "phát minh, tạo ra những cái mới có giá trị về vật
chất hay tinh thần mà tới nay chưa có ; tìm ra những giải pháp độc đáo
chưa ai dùng để giải quyết vấn đề này nọ ; hoặc là biết phù hợp hóa
những phát minh của người khác vào khung cảnh đặc biệt của mình". Nếu
quả vậy, tôi xin được phát biểu đôi lời về việc giáo dục đào tạo ra
những con người "biết suy luận".
II. Không thể có "suy luận", không
thể có "sáng tạo", nếu không có kiến thức cơ bản tối thiểu
Tôi nghĩ rằng loài người tiến bộ được
là nhờ tích lũy được những hiểu biết của các thế hệ trước, rồi mới tìm
ra những cái mới cho thế hệ mình, chứ không phải là mỗi thế hệ luôn luôn
trở lại thời đồ đá rồi tự phát minh lại từ đầu. Cho nên ở mức độ bình
thường, thì nên học cho đủ hiểu biết đã. Tôi nói điều này cho tất cả mọi
cấp "học", từ mẫu giáo, tiểu học, trung học và những năm đầu đại học,
ngoại trừ cấp "đào tạo qua nghiên cứu". Nói như vậy, không có nghĩa là
người học (học sinh, sinh viên) hoàn toàn thụ động, học kiểu "học vẹt" :
nếu nhà giáo có nhiệm vụ chuyển giao kiến thức qua bài giảng, người học,
ngoài việc phải tiếp thu, cũng còn phải được hướng dẫn để biết tập tự
mình tra sách, tìm tài liệu tại thư viện hay bằng những phương tiện khác
như tìm trên mạng, vv. để bổ sung sự hiểu biết của mình.
Ở đây, tôi thấy cần nói thật rõ để
tránh hiểu lầm. "Học vẹt" có thể điển hình bằng một thí dụ "cực cấp": Ở
nước nào có quốc giáo – (thần tiên hay trần tục) – thì có việc học
"thánh kinh", mà đã là học thánh kinh thì không có chuyện đòi suy luận,
chỉ có việc học sao cho thuộc, để tụng lại.
Từ thái cực này sang thái cực khác,
một số nhà sư phạm chủ trương rằng cần để cho người học (dù nhỏ tuổi) tự
mầy mò, tìm tòi hiểu biết. Thí dụ như theo họ, người sinh viên đại học
phải hoàn toàn tự học từ sách và tài liệu, nhà giáo chỉ "hướng dẫn" (
!?) mà không cần lên lớp (vậy thì nhà giáo đại học tồn tại để làm gì?).
Theo tôi, một bài giảng của nhà giáo có trình độ và lương tâm, trong mỗi
tiết học mang lại cho người học một khối lượng hiểu biết hoàn chỉnh –
(chính vì vậy mà tránh được việc học quá tải, thu gọn được số giờ học )
– kèm theo những chỉ dẫn về phương pháp và tài liệu tra cứu mà tự sinh
viên có thể không có được; và như vậy tiết kiệm được thì giờ cho người
học rất nhiều và tạo điều kiện tối đa cho họ dùng số thời giờ còn lại để
tự trau dồi thêm hiểu biết.
Để minh họa cho rõ ý, nếu lấy thí dụ ở
Pháp, ở các lớp C.P.G.E. – lớp ở mức tú tài+1 và tú tài+2, sửa soạn để
thi tuyển vào các Grandes Ecoles (trường lớn) của Pháp – không có
chuyện nhà giáo vào ngồi trên bục giảng nêu vấn đề, để rồi sinh viên
"trầm tư mặc tưởng". Hai năm học này là hai năm dạy và học rất căng, rất
nghiêm túc, chặt chẽ, luyện cho học sinh một cách học có qui củ.
Ở mức độ này, học sinh phải hấp thụ
các kiến thức cần thiết, chưa có chuyện mầy mò sáng kiến. Nếu ai tán
dương sự thành công của hệ thống Grandes Ecoles thì đừng lẫn lộn việc
học căng (dạy nhiều học nhiều nhưng phải tiêu hóa được) với việc học vẹt
(nhồi mà học sinh không hiểu).
Điều kiện để có một nền giáo dục đào
tạo hợp lý như kể trên , phụ thuộc ở nhiều điều : 1) Đào tạo được những
nhà giáo đúng chuẩn ; 2) Nhà giáo có được phương tiện đủ sống để hành
nghề nghiêm chỉnh ; 3) Bảo đảm điều kiện vật chất tối thiểu về trường
sở ; 4) Bảo đảm điều kiện vật chất và thời gian tối thiểu cần thiết cho
người học; 5) Luật lệ và phong tục không dung thứ những tha hóa làm
nhiễu môi trường học tập.
Những điều này tất nhiên phần lớn phụ
thuộc ở những quan chức có thẩm quyền, nhưng cũng phần nào phụ thuộc vào
các thành phần khác của xã hội có quan tâm đến vị trí quan trọng của
giáo dục đào tạo trong xã hội hiện tại và tương lai hay không. Những chủ
trương như : coi giáo dục là một "hàng hóa thuận mua vừa bán" trong một
thị trường hoàn toàn tự do; ưu tiên số lượng so với chất lượng, vv…
không phải là những chủ trương thuận lợi cho sự thực hiện những điều kể
trên.
III. Vấn đề "sáng tạo"
Trong cụm từ "đào tạo người có tư duy
sáng tạo", hình như đâu đó có một ẩn ý mong muốn đất nước có đựợc một
đội ngũ đông đảo những nhà nghiên cứu sáng chế ra những cái mới. Có hai
dạng "thông minh". Dạng thứ nhất là dạng "học giỏi" theo nghĩa hiểu
nhanh, chóng tiếp thu (đôi khi đoán được) ý của người khác, trả lời
được những câu hỏi của những ban giám khảo; dạng này thường thấy ở những
người thủ khoa, á nguyên của các kỳ thi. Đấy là dạng mà nhiều người nước
ta ưa chuộng, từ thuở xa xưa cho đến ngày nay. Dạng thứ nhì, là dạng "có
óc sáng tạo", biết phát minh ra cái mới chưa từng có, hoặc (mở rộng định
nghiã hơn nữa) biết phù hợp hóa vào điều kiện của mình những phát minh ở
nơi khác. Cả hai dạng này đều do "bẩm sinh". (Đây là một nhận xét, không
phải là sự đề cao năng khiếu). Ở một người, có thể hội tụ cả hai dạng
thông minh này, nhưng không phải ai ai cũng có may mắn ấy. Tôi đã từng
thấy những người thông minh dạng thứ nhất, nhưng khi đi vào nghiên cứu,
thì chẳng phát minh được ra cái gì mới cả, thậm chí có khi không thực
hiện nổi một cái luận án. Ngược lại cũng có những người không thuộc dạng
thứ nhất, nhưng lại có những phát minh mà sử sách còn ghi.
Nói như vậy không có nghĩa là mọi sự
đều tự phát. Dù là người thuộc dạng nào đi nữa, cũng phải nhờ một nền
giáo dục đào tạo nghiêm túc, cho họ những kiến thức cơ bản đầy đủ, để
sau đó họ phát huy được khả năng của họ. Chính là điều mà tôi nhấn mạnh
ở đây.
Trong một xã hội đang trên đà tiến
triển, nhu cầu cần giải đáp các vấn đề nảy sinh, làm cho việc tìm tòi,
nghiên cứu, trở nên quan trọng : phải biết suy luận đón trước những vấn
đề cần được nêu ra, và phải biết mang lại lời giải cho những vấn đề đó
hoặc những vấn đề còn bỏ ngỏ. Có lẽ vì vậy mà nhiều người Việt Nam trăn
trở với cái cụm từ "tư duy sáng tạo" chăng ? Tuy nhiên, phải biết phân
biệt "tìm" và "tìm thấy".
Ngoài ra, xin nhắc lại một câu chuyện đã cũ. Cách đây đã mấy chục năm,
một quan chức cao cấp trong nước hỏi tôi : liệu bao năm nữa thì ta có
thể có được một giải Nobel khoa học. Tôi trả lời : nước người ta có một
nền giáo dục đào tạo nghiêm túc ; khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn
hóa, vv. của họ phát triển mạnh, thì tới một lúc nào đó, họ có được giải
Nobel khoa học. Ngược lại, giả thử đem một nhà khoa học đã có giải
Nobel, cài vào một xã hội "lem nhem", thì người đó cũng chỉ cằn cỗi đi,
và khó có thể tiếp tục làm được gì đáng kể.