Những bài cùng tác giả
Dù có nhồi nhét đầy tri thức trong đầu, nhưng không thể ứng dụng vào thực tế
thì cũng vô nghĩa
Fukuzawa Yukichi
Dưới tiêu đề “Trẻ em đòi giảm tải chương trình …”, bản tin ngày 28-01-2008
của báo Tiền Phong cho biết em Trần Hán Nhật Minh, học sinh trường PTCS Lam
Sơn, quận 6 TPHCM, nói: “Hiện nay chúng cháu phải học quá nhiều, học chính
khóa không hết chương trình, chúng cháu phải học thêm ngoại khóa. Vì thế
chúng cháu không có thời gian vui chơi. Làm sao các cô các chú có thể thay
đổi chương trình học để chúng cháu không phải học ngày học đêm như hiện
nay?”.
Có lẽ cần phải có một luận án “hậu tiến sĩ” về sinh học tiến hoá để chứng
minh rằng học sinh ngày nay có bộ não “tiến hoá” hơn so với bộ não của các
thế hệ cha anh thủa trước, nếu không, sẽ không thể hiểu nổi tại sao sách
giáo khoa + lối dạy học hiện nay lại nhồi nhét vào đầu học sinh một khối
lượng kiến thức nhiều đến thế, nặng nề và khô cứng đến thế! Có lẽ một bộ óc
vĩ đại như Albert Einstein cũng không chịu nổi sự nhồi nhét quá tải đó chứ
đừng nói đến học sinh của chúng ta!
Chính Einstein cũng đã từng phải kêu la lên “giáo dục nhiều quá!” để phản
đối lối giáo dục nhồi nhét trong thời đại của ông. Ông cho rằng một nền giáo
dục “quá nhấn mạnh đến hệ thống ganh đua cũng như chuyên ngành hoá quá sớm …
sẽ giết chết tinh thần”. Ông vô cùng thất vọng khi thấy sự phát triển của
tuổi trẻ “đang bị đe doạ trầm trọng bởi sự nhồi nhét”. Ông cảnh báo: “Giáo
dục nhồi nhét tất yếu dẫn tới sự nông cạn và vô văn hoá”[1].
Anh ta phải được dạy để có một ý thức sống động về cái gì là đẹp và cái gì
là thiện. Nếu không, với kiến thức chuyên môn hoá của mình, anh ta chỉ giống
như một con chó được huấn luyện tốt hơn là một con người được phát triển hài
hoà.
Albert Einstein
Nhưng chẳng phải ngành giáo dục đã và đang thực hiện “giảm tải” đó sao?
Thoạt nhìn thì tưởng như vậy. Nhưng nhìn kỹ thì đó chỉ là sự giảm tải hình
thức – giảm số tiết học (!!!), thay vì giảm tải thực chất – giảm tải chương
trình như học sinh mong muốn! Kiểu “giảm tải” hiện nay chỉ càng làm cho thầy
và trò khổ hơn, vì phải dạy và học vẫn chương trình nặng nề đó trong một số
tiết ít hơn.
Vậy cần phải nói rõ: Chương trình giáo khoa hiện nay quá nặng, lối dạy học
và thi cử hiện nay quá hình thức, khoa trương chữ nghĩa, xa rời thực tế, làm
khổ cả thầy lẫn trò, dẫn tới tình trạng “dạy giả”, “học giả” tràn lan chưa
từng có.
Đã đến lúc Bộ GD & ĐT không thể làm ngơ trước nỗi khổ của học sinh!
1] Nỗi khổ của thầy và trò:
“Sách giáo khoa hành cả giáo viên chúng tôi. Hiện nay, các trường THCS của
chúng tôi đang dạy học theo một chương trình rất nặng nề của SGK cải cách, …
Mà đâu phải chỉ truyền tải kiến thức đơn thuần?... xin hãy ghé mắt vào SGK
của 12 môn học của THCS để thấy rằng chúng ta đang đào tạo một lớp người
‘‘thần đồng’’, một mẫu người toàn diện tuyệt đối”. Đó là lời bộc bạch chân
tình và thẳng thắn của cô giáo Trần Thị Tuyết Lan trên Việt Báo
(http://vietbao.com.vn) ngày 21-11-2007.
Thầy cô đã khổ như thế thì học sinh còn khổ đến đâu?
Ngày 12-11-2007, cũng trên Việt Báo, một học sinh lớp 11 đã kêu lên những
tiếng kêu nghẹn ngào nước mắt: “Đi học cực quá! Em hiện đang học lớp 11. Em
đã học chương trình mới gần 6 năm- một khoảng thời gian khá dài và thực sự
thấy chương trình cải cách này quá nặng. Mọi người luôn hỏi tại sao học sinh
bây giờ không biết sử VN hay có những bạn còn không biết đọc hướng trên bản
đồ? Câu hỏi này có nhiều người không thể trả lời nhưng đối với chúng em thật
đơn giản: đó là vì không có thời gian. Có những môn học chúng em không ưa
thích nhưng vẫn phải học, thật sự buồn chán và mệt mỏi khi phải đối phó với
thầy cô và với bài kiểm tra. Giáo viên những môn chính như Toán, Văn, Lý ,
Hóa ... sẵn sàng cho bài kiểm tra thật khó mà chỉ những ai đi học thêm biết
đề trước mới có "đủ trình độ" để làm. Em đã chứng kiến một số giáo viên
giảng bài qua loa trên lớp rồi cho làm bài tập, ai không biết làm thì điểm 0
sẽ đi vào sổ, còn những học sinh học thêm (thầy cô) thì đường học hành bằng
phẳng hơn nhiều. Quá kinh khủng, có những lúc em không muốn sống và bỏ học
vì những điều mình chứng kiến vẫn diễn ra như không tuân thủ theo những quy
tắc sư phạm nào. Em đi học thêm bây giờ cũng giống như ca sĩ chạy sô, có khi
1 ngày học 5 ca, chưa kịp tắm rửa thay đồ, chưa kịp ăn thì phải đi học, học
về mệt quá thì chỉ có thể đi ngủ. Để kịp giờ đi học sợ kẹt xe em đã bỏ bữa
ăn dù biết sẽ không hề tốt cho sức khoẻ”.
Chẳng nhẽ các quan chức giáo dục quan liêu đến mức không biết những sự thật
nói trên hay sao? Bất giác tôi nghĩ đến một hệ quả của Định Lý Bất Toàn của
Kurt Godel. Hệ quả này nói rằng không thể phán xét đầy đủ tính đúng/sai của
một hệ thống nếu chỉ sử dụng những lý thuyết bên trong hệ thống đó, muốn
phán xét một hệ thống, phải ra ngoài hệ thống đó. Vậy phải chăng các nhà
giáo dục cứ tự giam hãm, đóng khung trong hệ thống của mình, đắm đuối với
đống chữ nghĩa “cao siêu” của mình, tự huyễn hoặc mình như những Khổng Minh
ngồi sau màn mà biết việc muôn dặm, không bao giờ thèm bước chân ra bên
ngoài để lắng nghe xã hội đánh giá công việc của mình ra sao, do đó không
thấy được cái dở, cái sai của mình, cứ thế viết ra những gì phi thực tế và
phi sư phạm?
2] Một chương trình phi thực tế và phi sư phạm:
Tính phi thực tế và phi sư phạm của chương trình giáo dục đã được chính phó
thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân gián tiếp
thừa nhận khi ông phát biểu trước quốc hội ngày 16-11 rằng "Gần 80% những
người biên soạn SGK không dạy hoặc không còn dạy phổ thông. Những người dạy
thử thì thường là học trò của các thầy cô biên soạn sách".
Nhận định trên làm cho rất nhiều người sửng sốt ngạc nhiên. Làm sao không
ngạc nhiên khi được biết có những “học giả” không có kinh nghiệm về sư phạm
mà vẫn được phân công viết sách giáo khoa? Tại sao điều vô lý đó có thể tồn
tại lâu dài?
Ông Hồng Lê Thọ viết trên trang web Vietsciences: “Đáng ngạc nhiên thay khi
được biết 80% người tham gia viết sách giáo khoa cấp học phổ thông ở nước ta
lại là những nhân vật chưa tham gia giảng dạy, không hiểu cặn kẽ những vấn
đề tâm sinh lý, khả năng tiếp thu của các em theo từng cấp".
Nhưng dẫu sao thì sự thật trớ trêu đó cũng đã phần nào cho thấy các tác giả
viết sách giáo khoa lâu nay cứ việc ung dung ngồi trong tháp ngà, tôn thờ
chữ nghĩa “hàn lâm”, bất chấp cuộc sống thực tế bên ngoài, bất chấp tâm sinh
lý trẻ em, bất chấp phản ứng của xã hội.
Thái độ quan liêu đó dẫn tới một định hướng sai lầm trong giảng dạy môn
toán. Thay vì dạy học sinh làm sao để các em vui mà học, học toán để biết áp
dụng vào thực tế, … thì đáng buồn thay, chương trình giáo khoa và lối thi cử
hiện nay (thi quốc tế, thi trong nuớc, thi vào trường chuyên, lớp chọn,
v.v.) đã thúc đẩy sự phát triển của lối dạy toán theo kiểu đánh đố, ra oai,
nhằm cạnh tranh uy tín giữa các thầy và các trường là chính. Tâm lý này đã
trở thành một tai hoạ cho học sinh. Hầu như ở trường nào bây giờ cũng có ít
nhiều những thầy cô muốn chứng tỏ cái oai của mình với học sinh bằng cách
săn đuổi những “toán đặc biệt”, và chính đó là những thầy cô làm cho học
sinh khổ sở (như em học sinh lớp 11 ở trên đã kể lể). Từ đó, môn toán dần
dần đi chệch khỏi mục tiêu giáo dục cơ bản, môn toán biến chất từ một khoa
học sinh động và vui thú thành một trò đánh đố thuần tuý, đánh đố càng khó
càng được coi là giỏi (!). Học sinh nào vượt qua được những trò đánh đố đó
thì vội tưởng là mình giỏi toán, học sinh nào không vượt qua được thì đâm ra
sợ toán, ghét toán. Từ đó sự học biến dạng chưa từng thấy: Trong khi chưa
kịp ngấu kiến thức cơ bản thì học sinh đã vội lao vào học các thủ thuật và
mẹo mực giải toán, bởi nếu không học thủ thuật và mẹo mực sẽ không thể thi
vào trường chuyên, lớp chọn, thậm chí không thể tham dự các kỳ thi quốc tế.
Đó là lý do vì sao trong khi chúng ta sản xuất ra rất nhiều thí sinh đoạt
giải cao trong các kỳ thi toán quốc tế, thành tích vượt xa các nước láng
giềng như Philipine, Thái Lan, Malaysia, Singapore, v.v., nhưng lại thua xa
các nước này về nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng trong
thực tế.
Sự thua kém đó có thể thấy rõ qua số bài báo được đăng trên các tạp chí khoa
học quốc tế. Chẳng hạn, theo GS Phạm Duy Hiển[2], chỉ riêng trường Đại học
Chulalongkorn của Thái Lan năm 1996 đã có 332 bài báo được đăng, trong khi
toàn Việt Nam trung bình mỗi năm chỉ có 80 bài, mặc dù dân số Thái Lan là 63
triệu so với số dân Việt Nam là 80 triệu. Vậy là chúng ta có rất nhiều “học
sinh giỏi” nhưng lại có rất ít nhà khoa học giỏi!
Thật là nghịch lý! Đã đến lúc phải xét lại mục tiêu đào tạo, xét lại khái
niệm “học sinh giỏi”, xét lại giá trị thực của các kỳ thi vào trường chuyên,
lớp chọn, v.v.!
Nghịch lý này để lộ ra một kiểu giáo dục méo mó – kiểu giáo dục mà Einstein
cảnh báo là sẽ dẫn tới “sự nông cạn và vô văn hoá”, còn giáo sư Hoàng Tụy
thì nói rõ đó là “một nền hư học cổ lỗ với những căn bệnh kinh niên: học
nhồi nhét để đi thi, học tách rời với hành, chạy theo những giá trị ảo, các
hư danh”[3].
Nhưng sẽ là nhầm lẫn nếu đổ lỗi cho học sinh và thầy cô giáo, bởi vì sách
giáo khoa + phương pháp giảng dạy + thi cử định hướng thế nào thì thầy cô
dạy thế ấy, học trò học thế ấy.
Quy trình tạo lỗi có thể mô tả trong sơ đồ sau:
Nhận thức sai về bản chất,
mục đích, nhiệm vụ giáo dục
ß
Định hướng sai về chương trình
GK + PP giảng dạy + kiểu thi cử
ß
Dạy giả, nhồi nhét, đánh đố,
nặng về khoa trương hình thức
ß
“Học giả”, mất cơ bản, học
đối phó, học chỉ để để thi
Kiểu sai lầm về định hướng giáo dục nói trên thực ra đã từng xẩy ra trong
trào lưu “Toán Học Mới” ở phương tây cách đây mấy chục năm. Tiếc thay, sách
giáo khoa và lối dạy học ở ta đã và đang có những biểu hiện dẫm lại vết xe
của “Toán Học Mới”. Tại sao ngành giáo dục không học được gì từ bài học
“Toán Học Mới”?
Phải chăng những người cầm cân nẩy mực đối với việc hoạch định chương trình
giáo dục mặc bệnh quan liêu nặng, coi thường bài học của giáo dục thế giới?
Hoặc phải chăng các vị đó có một chút vốn liếng toán học từ những năm
1950-1970 nhưng sau đó không bao giờ chịu học hỏi nghiên cứu tiếp, vì thế cứ
bệ nguyên xi tư tưởng giáo dục tây phương thời đó (thời “Toán Học Mới”) vào
nền giáo dục của chúng ta?
Những nghi vấn nói trên sẽ được làm sáng tỏ nếu có một hội nghị giáo dục mở
rộng cho toàn dân tham gia ý kiến.
3] Sự cần thiết của một hội nghị giáo dục mở rộng cho toàn dân:
Theo tin trên các báo, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân
hoàn toàn đúng khi ông cho rằng cần phải tổ chức hội nghị hàng năm về sách
giáo khoa, mời các thầy cô giáo thảo luận về sách giáo khoa.
Tuy nhiên, nên mở rộng hội nghị đó thành một hội nghị giáo dục toàn quốc
trên nhiều diễn đàn công khai để tận dụng trí tuệ của toàn xã hội.
Cuốn “Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và giải pháp” do NXB Trí
Thức mới xuất bản gần đây là một tập hợp các ý kiến rất tâm huyết, rất thiết
thực của nhiều trí thức tiêu biểu, xứng đáng để trình bầy trong hội nghị đó.
Và còn hàng loạt ý kiến bổ ích khác cũng rất đáng được lắng nghe:
Bà Nguyễn Thị Thu Cúc- Hiệu trưởng trường THPT Gia Định (TPHCM) nói: “Sự quá
tải ngày càng trầm trọng khi nội dung thì càng nhiều nhưng thời lượng của
khá nhiều môn bị cắt bớt để đảm bảo việc giảm tải, dẫn đến công việc của
thầy và trò đều nặng nề hơn”[4].
Ông Nguyễn Thanh Hải thẳng thắn tuyên bố: “Con tôi không cần thi học sinh
giỏi”. Ông giải thích rõ lý do: “Cháu học lớp 5, cũng có tư chất, đi học bồi
dưỡng Toán - Tiếng Việt từ năm lớp 4. Tôi cũng cho cháu tham gia cuộc đua
vào trường NK (trường chuyên cấp II ở ĐN). Sau quá trình xem xét (bản thân
tôi cũng kèm cháu), tôi quyết định cho cháu nghỉ học bồi dưỡng... Tôi xem
toán lớp 5 bồi dưỡng của con tôi trong cuộc đua không giới hạn mà người lớn
tạo ra cho trẻ con, thật quá đáng! Tuổi thơ của những nhân tài bị đánh mất
một phần ở đấy. Ngày xưa học phổ thông, tôi cũng … từng vào đội tuyển quốc
gia để đi thi quốc tế, … vậy mà đọc nhiều bài toán giải trên cơ sở kiến thức
của cháu, tôi còn phải suy nghĩ nhiều, huống gì... Trong khi những bài ấy
chỉ cần 30 giây với công cụ đại số lớp 8. Cháu kể, thầy đứng lớp bồi dưỡng
toán, lâu lâu lại dừng lại và lẩm nhẩm "Ủa, bài ni giải răng hè?", cô lớp 5
dạy bồi dưỡng toán thì hay giải nhầm làm các cháu phản đối. Người lớn còn
vậy, thì con nít chỉ còn là cái máy nhớ dạng mà thôi. Tôi không phủ nhận là
có sự thông minh của từng lứa tuổi, nhưng cũng chừng mực nào đó thôi. Cái
giỏi của con người là phát minh ra công cụ, trong học thuật cũng như trong
sản xuất, chứ không phải dùng cuốc để dời núi!”[5].
Ông Đỗ Kim Chung viết: “Học như thế thần đồng cũng rớt … dường như giáo dục
chất lượng thấp quá nên phải “dạy học trò từ thuở còn thơ” bằng cách nhồi
nhét, học đến khủng hoảng, kinh hồn”[6].
Ngày 09/04/2005, báo Thanh Niên cho biết: Giáo sư Keith E. Schwingendorf,
chủ nhiệm khoa Toán Đại học Purdue University ở Mỹ, nhận xét về đề thi tốt
nghiệp THPT môn Toán ở Việt Nam năm 2005 như sau: “… Đề thi này có một số
yếu tố đánh đố…”. Nhận xét của GSTS Mark Kaiser thuộc Đại học Louisiana còn
nặng nề hơn: “…Theo tôi, đề thi này trừu tượng và lý thuyết, chưa kể là rất
khó. Nhưng nếu học sinh Việt Nam thông minh đặc biệt, tiếp thu được những
kiến thức như thế này thì rất hoan nghênh. Tuy nhiên, ngay cả khi giả sử
rằng chương trình trung học đã dạy tất cả kiến thức cần có để giải các bài
toán này, thì tôi vẫn thấy bài toán còn khó".
Ông Trần Luân phát biểu: “Đất nước đổi mới thì phương pháp dạy và học cũng
thay đổi. Nhưng bản thân tôi thấy sự thay đổi liên tục về SGK, thay đổi đến
nỗi thầy giáo còn chóng mặt. Không giống ngày xưa, hôm nay lại có tình trạng
bố trình độ đại học không dám giảng bài cho con học lớp 7, vì bố không hiểu
sự trình bày và phương pháp đổi mới, đáp số đúng nhưng thầy cô vẫn phê là
sai vì cách làm không phù hợp với công nghệ cải cách. Bản thân tôi cho rằng
việc học phổ thông là trang bị cho mình kiến thức phổ thông, học sinh luyện
tư duy, ý thức tìm kiếm, thu nhận kiến thức, kỹ năng động não, nhận xét và
phân tích nhũng vấn đề của con người trong cuộc sống. SGK hiện giờ chưa giúp
đươc học sinh điều đó, mà nó nghiêng về phía bắt học sinh phải học những
kiến thức mà người soạn sách muốn các em phải học hơn … Sai lầm trong soạn
SGK, cái giá phải trả được tính bằng thế hệ ”[7].
Từ lâu, tiến sĩ toán học Phan Huy Điển đã nhận xét trên báo Nhân Dân: “Một
số người làm cho nó (môn toán) ngày càng trở nên nặng nề, khó tiếp thu". Đến
nay ý kiến của TS Điển vẫn mang tính thời sự. Những ai hiểu biết ít nhiều về
lịch sử toán học thì sẽ biết ngay rằng cái lối làm cho toán học trở nên phức
tạp, khó hiểu và nặng nề này chẳng qua là ảnh hưởng của trường phái hình
thức, một trường phái đề cao lý thuyết hình thức đến mức tưởng rằng đó mới
là “toán học thật”, “toán học chân chính”, còn lại đều là “toán học loại 2”.
Đáng buốn thay, tư tưởng này lại chiếm ưu thế trong các nhà biên soạn SGK
của chúng ta! Đáng buồn hơn nữa là những tác giả SGK này không tỉnh thức để
nhận ra rằng hiện nay chủ nghĩa hình thức đã trở nên quá lỗi thời trên thế
giới rồi!
Chính cái chủ nghĩa hình thức tệ hại ấy đã làm cho chương trình giáo khoa
của chúng ta “nặng hơn nước ngoài từ 1 đến 3 năm”, như nhận định của GSTSKH
Nguyễn Xuân Hãn. Và cũng là lý do để GS Nguyễn Lân Dũng phải ngạc nhiên, khi
ông nói rằng “chương trình thấp hơn nước ngoài đã là vô lý nhưng cao hơn lại
càng cực kỳ vô lý!”
Với tất cả những gì đã phân tích ở trên, chúng ta nên làm gì để ra khỏi tình
trạng giáo dục hiện nay?
4] Những việc nên làm ngay:
Tình hình nước ta hiện nay có rất nhiều điểm tương đồng với Nhật Bản giữa
thế kỷ 19. Vậy xin mượn ý kiến của nhà tư tưởng cách tân Fukuzawa Yukichi,
người được ví như Voltaire của Nhật Bản, để nhấn mạnh một quan điểm giáo dục
khôn ngoan:
“Người biết chữ không thể gọi là người có học vấn nếu người đó không biết lý
giải, không hiểu biết đầy đủ đạo lý của sự vât … Dù có nhồi nhét đầy tri
thức trong đầu, nhưng không thể ứng dụng vào hành động thực tế thì cũng vô
nghĩa”.
Vậy đã đến lúc cần nêu lên kiến nghị với Bộ GD và ĐT:
** Cần xem xét lại mục tiêu giáo dục, từ đó xem xét lại định hướng chương
trình và phương pháp giảng dạy, thi cử, hướng tới một nền giáo dục thiết
thực, đề cao tính văn hoá của các môn học hơn là tính “tầm chương trích cú”.
** Cần huỷ bỏ chương trình giáo khoa khoa trương chữ nghĩa, hình thức chủ
nghĩa + lối dạy học nặng về nhồi nhét hù doạ + kiểu thi cử đánh đố hiện nay
càng sớm càng tốt!
** Nhanh chóng xây dựng một chương trình giáo khoa mới, đảm bảo tính cơ bản và
phổ thông, làm nòng cốt cho một phương pháp giảng dạy đúng đắn và một quy
chế thi cử hợp lý, sao cho kiến thức phải trong sáng, đơn giản, giầu ý nghiã
thực tế, dễ dạy, dễ học, đem lại niềm vui học cho học sinh.
Đó mới là một định hướng giáo dục khôn ngoan!
Hànội 31-01-2008
Phạm Việt Hưng
Chú Thích:
[1]: Ý kiến của Einstein trong bài này được trích dẫn từ cuốn “Thế giới như
tôi đã thấy” của Albert Einstein, NXB Trí Thức, 2005.
[2]: Xem “20.000 tiến sĩ ‘xịn’, tại sao không?” của Phạm Duy Hiển, tạp chí
vật lý ngày nay, Tháng 6-2007.
[3]: Xem Tài năng trong thời kinh tế trí thức và toàn cầu hoá” của Hoàng
Tụy, Tia Sáng số Tết Ất Dậu 2005.
[4] Xem “Cần mạnh dạn cắt bỏ những kiến thức 'hàn lâm'” ngày 26/12/2007 trên
Tiền Phong.
[5] và [6]: Việt báo ngày 15-11-2007.
[7]: Việt báo ngày 20-11-2007.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Phạm Việt Hưng
|