Ở nước ta có nếp sinh hoạt xã hội theo kiểu phong
trào, chiến dịch như “chiến dịch mùa hè xanh” cho
SVHS làm công tác quét dọn đường phố, cống rãnh… hay
đi đến các vùng sâu, vùng xa xây nhà, dạy học,
v…v... trong kỳ nghỉ ; phong trào xây dựng “khu phố
văn hóa” để bài trừ tệ nạn ở từng khu dân cư. Mỗi
đợt có thể kéo dài suốt mấy tháng hè hay cả năm tùy
theo nội dung “vận động” mà ý nghĩa của nó là nhằm
nâng cao ý thức của người dân, phát huy tinh thần hi
sinh của HSSV trong cuộc sống cộng đồng.
Việc cải cách và xã hội hóa giáo dục hiện nay của
chúng ta cũng vậy, có phong trào “hai không”(nói
không với tệ nạn chạy theo thành tích, dạy và học
kém chất lượng..), rồi 4 “không” và dài hơi nhất là
chủ trương đào tạo 21,000 TS trong 8 năm tới . Chủ
trương nầy, tuy chưa thành đề án chính thức, đã dấy
lên thật ồn ào, làm cho cả xã hội nhốn nháo; âu lo
đan xen với hi vọng . Không ít người hoài nghi những
kỳ tích nầy có thể thực hiện như ý muốn chủ quan hay
không, nhằm làm thay đổi diện mạo của nền giáo dục
đại học nước nhà, khắc phục được sự tụt hậu của hệ
thống giáo dục đại học và trên đại học như quan chức
ngành giáo dục mong đợi, bởi tính khả thi của nó
không thuyết phục; hiện tượng tiêu cực được nhiều
người nói nhiều trong hệ thống giáo dục mà xã hội
lên án như học giả - bằng thật, mua bằng, thi giùm,
dối trá trong thi cử v...v...….vẫn chưa khắc phục
được.
Vã lại trên thực tế, vấn đề đặt ra
là liệu có cần phải chạy theo số lượng TS đông đảo
như thế không hay là chỉ cần một số nào đó đủ trình
độ giảng dạy và nghiên cứu học thuật phù hợp với khả
năng phát triển của nền đại học nước nhà trong 10-15
năm tới, ít hơn nhiều so với con số hai vạn mốt,
nhưng thật sự giỏi giang ? Cuối cùng, đây có phải
là hiện tượng lọt vào một trong hai cái “nói không”
mà chính BT Nguyễn Thiện Nhân đang kêu gọi!?
Thật ra, hoài nghi ấy còn được khẳng định thêm vì
lời phát biểu mới đây của BT Nguyễn Thiện Nhân, ông
dõng dạc tuyên bố "Không có cái mới và không làm
khoa học thì đừng làm tiến sĩ” khi trả lời chất vấn
của các đại biểu quốc hội ngày 16/11/2007 . Phát
biểu nầy đã làm “nóng” hội trường vì nó quá đúng hay
vì nhiều người đồng tình với suy nghĩ trên? Từ trước
đến nay đã có ai dám nêu vấn đề thẳng thừng như vậy!
Bình tĩnh suy xét,chính BT lại mâu thuẩn với chính
mình vì trong tình trạng hiện nay thử hỏi lấy đâu ra
giáo sư chỉ đạo và hướng dẫn, phương tiện, cơ sở
vật chất, phòng thí nghiệm…để thực hiện 21,000 đề
tài “mới” như BT nói, ngoài việc ngồi nhà hay ở văn
phòng làm luận văn “tại chức” như thực tế hiện nay
đối với các chuyên đề nghiên cứu trong khoa học nhân
văn ?. Cho dù là ½ số TS nầy sẽ được nước ngoài đào
tạo giúp thì cũng không hi vọng gì tìm được GS hướng
dẫn, vốn bận rộn vô cùng trong công việc thường
nhật. Ngoài ra còn phải chọn cho ra đề tài gì để
nghiên cứu,có đủ tiền để ủy thác đào tạo ; không lẽ
mặc “ai muốn làm gì thì làm, đề tài nào, trường nào
cũng được miễn là nước ngoài” trong khi nhà nước
phải cưu mang trong 3-4 năm(và có thể dài hơn) của
“lộ trình” lấy bằng tiến sĩ ? Còn 10,000 người nữa
nghiên cứu ở trong nước thì ai sẽ thẩm định cái tính
“thật sự mới” của đề tài khoa học.
Trong khoa học, để lấy bằng TS thì kết quả nghiên
cứu phải là những phát hiện mới về lý thuyết hay
phương pháp thực nghiệm vậy mà theo như lời BT
Nguyễn thiện Nhân thì nước ta đang (đã) có một thực
tế khác đáng lo ngại (1 *) . Thiết nghĩ bộ GD DT
cần có can đảm điều tra và đưa ra con số TS mà luận
văn nghiên cứu “không có gì mới” để giảm bớt tỷ lệ
người học “giả” bằng thật . Có như vậy mới tránh
khỏi tiếng xấu “nói để mà nói” thôi, giống như kêu
gọi theo kiểu phong trào trong SVHS hay các chiến
dịch huy động quần chúng trong xã hội tham gia mà
chúng ta thường nghe thấy. Cuối cùng liệu có khả
năng 21,000 vị đỗ đạt mảnh bằng TS sắp tới lại là
sản phẩm của phong trào chạy theo thành tích , học
xong trở vể ngồi ở chiếc ghế giảng dạy tại đại học
thôi (để nâng lên tầm quốc tế ?) hay để dành một
chức vụ trong bộ máy quản lý nhà nước(70% người lấy
bằng Tiến Sĩ nhằm mục đích nầy), không thể nghiên
cứu tiếp tục đề tài theo đuổi trong suốt quá trình
lấy TS.
Hơn thế nữa, việc cho rằng tỷ
lệ giáo viên có học vị TS trên 20% số cán bộ giảng
dạy để chứng tỏ đại học nước ta có nhiều người có
trình độ cao chỉ có giá trị biểu kiến, thật là huyễn
hoặc và lãng phí vô cùng cho đất nước nếu nhận thức
rằng lấy được học vị nầy là đạt đến đỉnh cao của học
thuật trong khi trên thực tế đây chỉ là bước khởi
đầu của nghiên cứu khoa học mà thôi! Người trí thức
nào cũng thừa biết rằng muốn nghiên cứu khoa học ở
cấp độ TS thì cần có cơ sở vật chất, ê-kíp (nhóm
cùng nghiên cứu dưới sự chỉ đạo của một vị giaó sư
trong ngành) đồng thời phải có ngân sách dành cho
nghiên cứu học thuật , khả
năng giao lưu, công bố kết quả tại các hội nghị quốc
tế; Thử hỏi khi chuyên gia hay TS của VN về nước có
được những điều kiện như thế hay không hay phải tự
bỏ tiền túi ? Nói cho cùng, đây cũng chính là một
trong những lý do giải thích tại sao nhiều trí thức
VK đỗ đạt cao e ngại khi nghĩ đến việc trở về quê
hương dạy học mà không có điều kiện theo đuỗi
nghiên cứu khoa học.
Về việc lập chuẩn trong đào tạo TS trong nước, tại
sao BGD DT không áp dụng tiêu chuẩn mà phần lớn các
ĐH lớn ở các nước đang áp dụng . Luận án Tiến sỹ
phải có ít nhất 3 bài báo cáo trên báo chuyên ngành
quốc tế ? Ba bài phát biểu chuyên ngành trên báo
chuyên ngành quốc tế(hoặc trong nước) này cũng có
thể áp dụng cho việc thẩm định lại học vị Tiến sĩ
hiện có(3***) của những người trong các ngành khoa
học tự nhiên đã được tuyên phong .
Thiết nghĩ vấn đề cải cách giáo dục đang rối như
tơ vò, không thể nào một cá nhân dù tài giỏi đến mấy
có thể xây dựng một lộ trình nghiêm túc.Cần phải xây
dựng một hội đồng nghiên cứu và thẩm định một cách
qui cũ, theo hệ thống những vấn đề liên quan đến lực
lượng giáo viên, giáo sư, lương bỗng, sách giáo
khoa, trường lớp, chương trình đào tạo, tổ chức thực
hiện…đã tích tụ bao nhiêu khó khăn, nan giải chồng
chất từ nhiều năm, không thể chỉ hô hào “ba giảm”
hay “hai không”, chỉ họp hằng năm đôi ba lần phát
biểu chung chung, chiếu lệ…là có thể khắc phục được.
Nếu có thì cũng chỉ là hạn chế được phần nào trong
lúc ”phong trào” dâng cao, rồi sau đó đâu lại hoàn
đấy.
Đã đến lúc cần có những giải pháp cơ bản và đồng bộ
mang tính chiến lược, bên cạnh vấn đề đặt lại chuẩn
mực trong nghiên cứu khoa học để cấp phát bằng cấp,
cơ chế kết hợp-phối hợp(liên thông) về học thuật
giữa các đại học trong và ngoài nước… , bức xúc nhất
là cần phải làm rõ ràng những tiêu cực về chi-thu
trong giáo dục, rà soát lại vấn đề biên soạn sách
giáo khoa, chế độ đãi ngộ như thế nào trong nghiên
cứu học thuật cũng như lương bỗng, phong hàm một
cách tương xứng cho những công trình khoa học có giá
trị…thay vì châm bẫm vào vấn đề tăng học phí để
“nâng cao chất lượng” trong việc thực hiện chủ
trương “xã hội hóa” giáo dục như hiện nay.
Đáng ngạc nhiên thay khi được biết 80% người tham
gia viết sách giáo khoa cấp học phổ thông ở nước ta
lại là những nhân vật chưa tham gia giảng dạy, không
hiểu cặn kẽ những vấn đề tâm sinh lý, khả năng tiếp
thu của các em theo từng cấp.
Kinh nghiệm tại Nhật bản, trước khi đưa ra một sách
giáo khoa (cho một cấp học nào đó), Bộ giáo dục phải
lập ra một Ban chuyên môn kiểm định và cuối cùng
phải được một hội đồng khoa học gồm những những nhà
giáo,giáo sư, chuyên gia, phụ huynh