Những bài cùng tác giả
Hệ thống
đại học ở một nước như Việt Nam phải phát triển theo một quỹ
đạo tối ưu giữa số lượng và chất lượng. Cần mở rộng quy mô
để thỏa mãn nhu cầu được học ngày càng cao của người dân
(phương nằm ngang), đồng thời phải nâng cao chất lượng đào
tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) ở một số trường trọng
điểm, được xem như những chiếc máy cái cho nền khoa học và
đại học nước nhà (phương thẳng đứng). Đây là những đại học
nghiên cứu theo các tiêu chí và chuẩn mực quốc tế. Tại đây
người thầy phải nghiên cứu khoa học ở trình độ quốc tế, qua
đó nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường phải xây dựng
được các trung tâm đào tạo và NCKH ngang tầm quốc tế –
Centers of Excellence – được lãnh đạo bởi những nhà khoa học
có vị trí trên mặt tiền khoa học -công nghệ của thế giới.
Theo đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, tốc độ phát triển
theo phương thẳng đứng (các trường đại học nghiên cứu) phải
nhanh hơn tốc độ theo phương nằm ngang (mở rộng quy mô đào
tạo). Nếu không, các trường đại học sẽ thiếu nhân lực, chất
lượng ngày càng sa sút, và xu hướng thương mại hóa sẽ lên
ngôi, phá nát cả hệ thống. Nguy cơ này đang dần lộ diện ở
nước ta. Bởi chúng ta chưa quyết tâm xây dựng một bộ mặt mới
cho đại học Việt Nam theo những tiêu chí được thế giới nhìn
nhận.
Bức
tranh NCKH của các nước Đông Á và Đông Nam Á

Bức
tranh NCKH của 11 nước Đông Á (Hình 1) cho thấy không có bất cứ
lý do nào để khước từ CBQT nếu chúng ta muốn đất nước sánh vai
với các nước tiên tiến trong khu vực.
Tính
trên một triệu dân, Singapore đứng đầu khu vực về CBQT, gấp 170
lần Việt Nam. Theo sát sau Singapore là Đài Loan, Hàn Quốc,
HongKong và Nhật Bản, năm nước này tạo thành nhóm tiên tiến nhất
trong khu vực. Dưới cùng trở lên là Indonesia, Philippines và
Việt Nam. Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia thuộc nhóm giữa,
nhưng vẫn vượt khá xa ba nước vừa nêu trong nhóm cuối. Năm 2008,
65 triệu dân Thái Lan công bố 3904 công trình, trong khi đó Việt
Nam đông dân hơn (87 triệu) nhưng chỉ mới có 806 công trình.
Thành tích CBQT của Việt Nam khá hơn Indonesia và Philippines,
mặc dù thu nhập bình quân của hai nước này cao hơn ta gấp hai
lần. Hơn nữa, trong nhiều năm liền, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ
tăng trưởng cao về công bố quốc tế, 16%/năm, ngang với tốc độ
của Thái Lan và Malaysia.
Vậy
điều gì làm chúng ta lo ngại?
Thứ nhất, các trường đại học chỉ chiếm 55% số CBQT của Việt
Nam trong khi ở Thái Lan nghiên cứu khoa học tập trung chủ yếu ở
các trường đại học (95%). Gắn NCKH với đào tạo đại học là ưu thế
của các nước đi sau mà ta không tận dụng. Xem nhẹ sự gắn kết này
dẫn đến chất lượng đại học sa sút và những tri thức khoa học mới
nhất không được lan tỏa đến cộng đồng để góp phần nâng cao dân
trí.
Thứ hai, CBQT của ta còn dựa quá nhiều vào nước ngoài,
những công trình do nội lực tạo ra, và đồng thời gắn kết hơn với
đời sống của đất nước, chỉ chiếm một phần ba, còn lại chủ yếu
làm ở các nước tiên tiến thông qua con đường đào tạo hoặc hợp
tác, có nội dung liên quan trực tiếp với đất nước họ. Trong khi
đó, tỷ lệ công trình nội lực ở nhiều nước khác đều cao hơn
nhiều, Philippines: 55%, Thái Lan: 65%, Malaysia: 75%, Trung
Quốc: 80%, chứng tỏ nhiều nước trong vùng đã xây dựng được tiềm
lực khoa học đủ mạnh để giải quyết những đề tài khoa học do kinh
tế và đời sống của họ đặt ra.
Thứ ba, những công trình do nội lực được trích dẫn ít hơn
hẳn so với những công bố có nước ngoài hợp tác (thậm chí có công
trình hầu như không được ai trích dẫn), phản ảnh sự khác biệt
quá xa giữa trình độ khoa học trong và ngoài nước.
Thứ
tư, dẫn đầu danh sách các công trình do nội lực của Việt Nam là
Toán và Vật lý lý thuyết, hai ngành được đầu tư rất ít và hầu
như không cần những cơ sở hạ tầng nghiên cứu tốn kém. Ở các nước
khác tình hình hoàn toàn ngược lại. Ở Đại học Chulalongkorn
chẳng hạn, CBQT do nội lực tập trung vào các lĩnh vực ứng dụng
gắn liền trực tiếp đến đời sống như hóa học, y dược, công nghệ
v.v. Trên thực tế chúng ta đầu tư không ít cho khoa học ứng
dụng, công nghệ, xã hội nhân văn v.v., song đầu ra trên các diễn
đàn quốc tế chỉ lác đác.
Bốn
đặc điểm trên đây là bất bình thường, không giống những gì diễn
ra ở các nước khác, chúng khoét sâu thêm những yếu kém bên trong
những thành tích CBQT “đúng quy luật” của Việt Nam. Đây là những
vấn đề cần được nhìn nhận và giải quyết để đại học và khoa học
Việt Nam có tư thế ngày càng vững vàng hơn trong quá trình hội
nhập với thế giới.
Hội nhập quốc tế có nghĩa là đại học của nước ta phải bước lên
các sân chơi quốc tế với đầy đủ tư thế, đặc biệt là các sân chơi
về NCKH.
Bản
thân ta phải đủ mạnh mới hội nhập được với thế giới
Có
lẽ nên bắt đầu từ câu hỏi tại sao không ít ấn phẩm khoa học nội
địa có chất lượng tốt lại không thể xuất hiện trên các tạp chí
quốc tế? Mà chỉ nơi đây mới có thước đo tương đối đúng đắn chất
lượng NCKH và giảng dạy đại học.
Trước hết, phải nói ngay rằng từ một công bố nội địa đến CBQT
trên tạp chí có uy tín là cả một khoảng cách rất xa,
không dễ vượt qua đối với nhiều người làm khoa học ở nước ta.
Trên đoạn đường này lại có rất nhiều rào cản làm nản lòng họ, dù
họ biết rất rõ cái đích “quốc tế” cần vươn tới ấy giá trị đến
nhường nào. Kinh nghiệm cho thấy từ khi hoàn thành một đề tài
NCKH được nghiệm thu tốt ở Việt Nam cho đến khi nội dung khoa
học ấy được xuất hiện trên tạp chí quốc tế là khoảng thời gian
rất dài, đầy gian nan thách thức.
Nhưng đây cũng chính là khoảng thời gian thể hiện tính chuyên
nghiệp cũng như đẳng cấp của nhà khoa học. Đây là lúc nhà khoa
học phải mang những nội dung nghiên cứu của mình đặt lên mặt
tiền tri thức nhân loại. Đối thoại với các phản biện đồng nghiệp
quốc tế sừng sỏ nhất còn chính là dịp để khẳng định kỹ năng
trình bày, lập luận logic, vươn tới mức chính xác cao nhất v.v.
những kỹ năng thiết yếu nhất của các thầy giáo đại học làm nhiệm
vụ truyền đạt kiến thức khoa học cho sinh viên. Lại một lần nữa
ta thấy tại sao các trường đại học trên thế giới lại yêu cầu các
thầy giáo phải có CBQT.
Những khó khăn trên đây giải thích vì sao chưa có một tạp chí
nội địa nào của nước ta, dù xuất bản bằng tiếng Anh đã lâu, được
lọt vào danh sách ngót một vạn tạp chí quốc tế hiện nay; vì sao
gần hai phần ba công bố quốc tế của Việt Nam được thực hiện tại
các nước tiên tiến (qua các chuyến đi công tác, thực tập ở nước
ngoài), hoặc được thực hiện tại Việt Nam nhưng lại do nhà khoa
học nước ngoài chủ trì.
Nếu Đại học Việt Nam muốn hội nhập với thế giới, chúng ta
cần có tư duy mới về cách tổ chức hoạt động NCKH và giảng
dạy đại học ở nước ta. Phải phấn đấu xây dựng những nhóm
nghiên cứu mạnh (center of excellence) ở các trường đại học,
như những đơn vị cấu trúc hoàn toàn mới của nền khoa học và
đại học Việt Nam. |
Tuy
nhiên, cũng không ít nhà khoa học Việt Nam có công bố quốc tế
đều đặn, một số ngành như Toán và Vật lý công bố nhiều hơn hẳn
các ngành khác, đặc biệt là các ngành công nghệ và khoa học xã
hội, nhân văn, và cũng nhiều hơn hẳn một số nước Đông Nam Á. Lý
giải chuyện này chắc sẽ giúp chúng ta nhận ra những ưu việt của
chính mình và tìm lối đi nhanh đến các sân chơi quốc tế về khoa
học và đại học.
Từ
thực trạng trên dễ thấy ngay rằng cần có tư duy mới về cách tổ
chức hoạt động NCKH và giảng dạy đại học ở nước ta. Phải phấn
đấu xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh (Center of Excellence) ở
các trường đại học, như những đơn vị cấu trúc hoàn toàn mới của
nền khoa học và đại học Việt Nam.
Hội nhập khoa học và đại học Việt Nam với thế giới chính là xác
lập chỗ đứng của các nhóm nghiên cứu này trong cộng đồng khoa
học quốc tế.
Đòi
hỏi một nghiên cứu sinh có ít nhất một công bố quốc tế trước khi
trình luận án sẽ là bất khả thi nếu người thầy không có công bố
quốc tế đều đặn, không có chỗ đứng nào đó trong cộng đồng quốc
tế. Do đó, trong việc xét duyệt và phong hàm giáo sư, công bố
quốc tế phải là tiêu chí quan trọng nhất, thậm chí ở nhiều nước
còn là tiêu chí độc tôn. Có thể việc này chưa làm được đối với
các thế hệ trước, nhưng không có lý do gì minh chứng cho việc
tiếp tục duy trì tư duy này cho các thế hệ từ nay về sau. Không
thể vì hư danh của một số người trong thế hệ này mà làm hỏng các
thế hệ tương lại.
Cho
nên chính thức chấp nhận công bố quốc tế như một tiêu chí cho
giáo sư và phó giáo sư sẽ là bước đột phá đầu tiên cần làm ngay.
Từ đó sẽ còn nhiều bước đột phá tiếp theo để tác động đến toàn
bộ cách quản lý và tạo ra môi trường lành mạnh cho NCKH và giảng
dạy đại học.
Tuy
nhiên, những bước đột phá ấy vẫn chưa đủ. Về phía người NCKH
cũng phải cố gắng vượt qua chính mình mới có đủ hành trang bước
lên các sân chơi quốc tế.
Vượt qua chính mình
Muốn
có CBQT, trước hết phải thường xuyên đọc các tạp chí quốc tế
cùng chuyên ngành. Có đọc mới thấy mình nghiên cứu đúng hướng,
đi tìm đúng cái mới, và tự lượng định liệu mình đủ sức chen chân
vào các sân chơi quốc tế hay chưa, còn phải tiếp tục hoàn thiện
mình thêm ở những khâu nào nữa. Thiếu tạp chí quốc tế để các nhà
khoa học tra cứu là khó khăn cần phải được giải quyết ngay ở cấp
quốc gia hiện nay.
Phải
đọc những gì các đồng nghiệp quốc tế đã viết ra trong ít
nhất 5 năm gần đây là điều kiện tiên quyết trước khi tiến
hành một đề tài nghiên cứu. Gần đây Trung tâm Thông tin khoa học
thuộc Bộ KH&CN đã mua được quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu của
Thomson Reuters, ISI Web of Knowledge
http://db.vista.gov.vn/login.aspx,
qua đó có đầy đủ thông tin cập nhật cho một vạn đầu tạp chí khoa
học được xem là có uy tín nhất hiện nay trên thế giới. Vào trang
web này ta có thể tìm thấy rất nhiều thông tin liên quan đến
hoạt động NCKH của từng nước, từng cơ sở nghiên cứu, trường đại
học, số lượng và chất lượng (số lần được trích dẫn) và bản tóm
tắt từng công trình của từng nhà nghiên cứu. Trang mạng Scholar
Google, với khẩu hiệu “hãy đứng trên vai những người khổng
lồ” cũng rất phổ dụng và hữu ích.
Chẳng những đọc công trình các đồng nghiệp cùng chuyên ngành mà
còn phải tìm cách đối thoại với họ qua email, thông qua các kênh
hợp tác quốc tế để mời chuyên gia nước ngoài đến làm việc, và
nhất là trực tiếp gặp gỡ họ qua các hội nghị quốc tế. Đây là
những diễn đàn quan trọng, dễ tiếp cận, cho nên cần khuyến khích
và cấp kinh phí đủ để các nhà nghiên cứu nước ta có điều kiện
hội nhập với đồng nghiệp khắp năm châu.
Viết
bài đăng trên các tạp chí quốc tế có nghĩa là đối thoại với đồng
nghiệp quốc tế. Ta luôn tưởng tượng có người đang nghiêm khắc
“vặn vẹo” mình sau từng câu chữ được viết ra. Hiện nay phần lớn
các tạp chí quốc tế đều bằng tiếng Anh. Nên thạo tiếng Anh
là điều kiện bắt buộc để tòa soạn nhận đăng công trình. Ở
đây không hề có sự nhân nhượng nào về ngôn ngữ, một công trình
có giá trị về nội dung học thuật vẫn bị từ chối nếu viết tiếng
Anh không ra hồn. Lại không nên nghĩ rằng có thể viết bài báo
bằng tiếng Việt rồi nhờ ai đó dịch ra tiếng Anh, bởi ngôn ngữ
chuyên môn rất khác ngôn ngữ thông dụng, nhiều khi mỗi tạp chí
lại có những yêu cầu và phong cách riêng. Trên thực tế, người
nghiên cứu phải suy nghĩ bằng tiếng Anh, chứ không phải theo
tiếng mẹ đẻ, rồi sau đó chuyển thể ra tiếng Anh. Ngoại ngữ là
rào cản rất lớn đối với những người nghiên cứu khoa học xã hội,
nhân văn.
Vượt
qua rào cản ngôn ngữ là cả một quá trình luyện tập. Kinh nghiệm
cho thấy cần phải học tiếng Anh từ đầu, bài bản, nếu không rất
khó thành công. Đây là khó khăn của rất nhiều nhà khoa học lớn
tuổi muốn khẳng định chỗ đứng của mình trong cộng đồng quốc tế.
Cho nên cần khuyến khích một số trường đại học chất lượng cao
giảng dạy bằng tiếng Anh.
Tin
rằng một thế hệ mới các thầy giáo đại học Việt Nam sẽ xuất hiện,
họ có thể nói chuyện với đầy đủ tư thế cùng các đồng nghiệp nước
ngoài. Họ sẽ là bộ mặt mới của đại học Việt Nam. Còn thế hệ cũ
đang đóng vai các lão làng:
P. D. H.
Nguồn:
http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=108&News=3087&CategoryID=400
|