Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Khoa học và Giáo dục

Vietsciences-Nguyễn Lân Dũng    03/11/2013

 

 Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa trút hơi thở cuối cùng ở tuổi Đại thượng thọ 103 tuổi. Cả nước thương tiếc người anh hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Riêng giới trí thức đau xót tiễn đưa người trí thức cách mạng tiêu biểu, và là người gắn bó thân thiết với giới trí thức nước nhà.

Võ Đại tướng sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình , trong gia đình một nhà nho yêu nước. Gia đình ông có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho (sau này là Giám đốc Khu học xá trung ương và Thứ trưởng Bộ Giáo dục). Học xong lớp 3 cậu phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp..Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau ông Nguyễn Thúc Hào, sau là Giáo sư , Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Vinh).

Hai năm sau, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.

Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu ông vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tháng 4/1927 tại trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, nên đuổi học. Ông liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Ông bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Mùa hè năm 1928, ông trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu ông đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương. Tại đây ông có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về.Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, ông bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế) Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, ông được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Từ năm 1936 đến 1939, ông tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.Tháng 5 năm 1939, ông nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng ông Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Bác Hồ .Chỉ sau một thời gian ngắn, Bác Hồ đã thấy ông là người có nhiều triển vọng nên liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử ông đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Năm 1941 ông cùng Bác Hồ trở về Cao Bằng. Sau đó ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo hướng dẫn của Bác Hồ, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và liên tiếp 6 kỳ sau. (sau khi ông qua đời có lẽ đại biểu Quốc hội Khóa I chỉ còn lại có bác Nguyễn Văn Trân và bác Việt Thanh). Ngày 14 tháng 8 năm 1945, ông trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội II, III, IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và là Uỷ viên Bộ Chính trị. Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, Võ Nguyên Giáp luôn là một trong những nhân vật lịch sử đứng ở hàng đầu trong cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Do những cống hiến lớn lao, Võ Đại tướng đã được thưởng Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước.Cuộc đời của Đại tướng qua các cuộc kháng chiến cứu nước với nhiều cương vị khác nhau - Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật... là thời gian mọi người đều biết đến nên không cần phải nhắc lại thêm nữa.

 

 

Bản thân Võ Đại tướng là một trí thức cách mạng, một nhà giáo yêu nước nên Võ Đại tướng đã dành rất nhiều tình cảm và tâm trí để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam, phát triển nền giáo dục và khoa học trong công cuộc Đổi mới . Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn như ngọn hải đăng của những người trí thức trước những vấn đề trọng đại của đất nước. Ông đã sống trọn cuộc đời bằng nhân cách của một người trí thức biết gánh vác vận mệnh của đất nước trong cả thời chiến lẫn thời bình. Nhà sử học Dương Trung Quốc, từng là một người đồng nghiệp - người học trò của Đại tướng đã đánh giá : “Có thể nói thắng lợi của cách mạng Việt Nam với mục tiêu giải phóng dân tộc bao gồm việc giành độc lập dân tộc, và giữ vững nền độc lập ấy trong suốt ba thập kỷ chiến tranh phụ thuộc một phần lớn vào tinh thần “uy vũ bất năng khuất” của một thế hệ vàng. Dù trưởng thành trong nền giáo dục thực dân, nhưng họ vẫn giữ được những giá trị của nền văn hóa dân tộc, tiêu biểu là nền Quốc học. Bên cạnh đó, họ đã được tiếp thu một nền học vấn với những tư tưởng văn hóa phương Tây rất cơ bản mặc dù trong bối cảnh nền giáo dục của một nước thuộc địa luôn bị thực dân áp bức, đồng hóa. Thứ ba, đó là thế hệ khao khát độc lập tự do đến mãnh liệt và ba điều đó hòa trộn với nhau rồi được quy tụ dưới lá cờ cách mạng do Hồ Chí Minh đứng đầu. Võ Nguyên Giáp là một trong những tinh hoa đầu tiên trong thế hệ vàng đó.” Một bài viết trên tạp chí Tinh Hoa đã nêu rất rõ tinh thần thiết tha với sự nghiêp khoa học và giáo dục của Võ Đại tướng: Năm 1977, hai năm sau khi thống nhất đất nước, theo sự phân công của Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp giã từ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã được Hồ Chủ tịch ủy nhiệm từ năm 1945 để nhận công tác ở cương vị mới: Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực khoa học – kĩ thuật. Bao nhiêu năm cầm quân đánh giặc, liệu nền tảng trí thức trong ông có bị phai nhạt ít nhiều? Tư duy ấy có bị chuyện thắng thua chi phối mà quên mất chiến thắng chỉ có ý nghĩa khi xây dựng được những nền tảng tiến bộ cho đời sống nhân dân? Có thể nói, bản lĩnh của một trí thức lớn đã được khẳng định đầy thuyết phục qua thử thách của Đảng và Chính phủ. Tuy những hạn chế của thời đại đã khiến nhiều chiến lược kinh tế của ông không thể thành hiện thực nhưng cho đến hôm nay, những tư duy của ông vẫn khiến chúng ta phải kính trọng về hàm lượng trí tuệ và con mắt chiến lược trong đó. Từ những năm 1978, khi tư duy kinh tế thời chiến vẫn còn ngự trị trong toàn xã hội, ông đã nhìn thấy vấn đề “đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp nước ta”. Đại tướng đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ tổng hòa của các yếu tố đất - nước - rừng - biển trong việc giữ gìn hệ sinh thái và phát triển lâu dài. Ông viết: “Nước ta nằm trên bờ biển Thái Bình Dương, cho nên đất, nước, rừng, biển đều có mối liên hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Có thể nói rằng: rừng và biển có tầm quan trọng rất to lớn không những về mặt tiềm năng các sản phẩm quý giá có thể cung cấp cho xã hội mà còn có vai trò giữ gìn môi trường và cân bằng sinh thái tốt nhất đối với toàn bộ đất đai nước ta, đối với việc phát triển các ngành kinh tế quốc dân trong cả nước. Trong một đất nước có bờ biển dài hơn 3000 km với 80% dân số là nông dân, tư duy ấy không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững cho nền kinh tế, mà còn đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của mỗi người dân. Giờ đây, những suy nghĩ từ cách đây hơn 30 năm ấy mới bắt đầu đi vào cuộc sống. Nếu trong chiến tranh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nổi tiếng với khả năng nhìn thấy điểm yếu và tấn công điểm yếu của kẻ địch thì trong thời bình, người trí thức ấy lại tìm ra những thế mạnh nổi trội của nền kinh tế. Ngoài chiến lược về nông nghiệp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn đề xuất một chiến lược về Kinh tế biển và Khoa học kỹ thuật về biển .Trong đó, việc mở đường ra biển, làm ăn kinh tế biển được kết hợp chặt chẽ với quốc phòng. Mục đích lâu dài là chuyển đổi cơ cấu kinh tế ven biển thành miền công nghiệp thủy sản trù phú. Cái nhìn ấy cũng đã cách đây hơn 30 năm và giờ đây chúng ta cũng đang đi những bước đầu tiên về phía biển…

Ngay từ năm 1985, Đại tướng đưa ra những kiến nghị sâu sắc về việc đổi mới quản lý trong khoa học và giáo dục, trong đó Đại tướng nhấn mạnh đến việc phải có chế độ trả công cho lao động khoa học tương xứng, Chấm dứt việc thang lương của thầy cô giáo, kỹ sư… lại thấp hơn cả thu nhập của thầy bói, thầy cúng. Đòi hỏi phải xây dựng một môi trường thật sự dân chủ đối với tư duy khoa học, trong đó việc tôn trọng trí thức, khuyến khích nhân tài đã được Đại tướng dày công xây dựng trong một bản chiến lược công bố từ tháng 1 năm 1989, đến nay đã được gần 20 năm nhưng vẫn chưa bao giờ vơi đi tính thời sự.Năm 1991, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghỉ hưu ở tuổi 80 và thôi giữ các chức vụ trong Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, tâm huyết và trí tuệ của ông thì chưa bao giờ ngừng nghỉ. Cả cuộc đời ông đã hiến mình cho lý tưởng cách mạng và lý tưởng đó đã trở thành máu thịt trong ông. Dù tuổi cao, sức yếu nhưng trong cuộc sống, ông vẫn đồng hành cùng từng trăn trở, từng suy tư của người dân Việt Nam. Giáo sư Hoàng Tụy kể lại: sáng kiến về bản kiến nghị chấn hưng giáo dục do nhóm 24 nhà khoa học- trí thức gửi lên Chính phủ năm 2004, chính là lấy ý tưởng từ bản kiến nghị của Đại tướng gửi đến nhóm. Sau khi công bố, bản kiến nghị đã có một tiếng vang lớn, và một số những thay đổi về phân ban, chức danh Phó giáo sư, giáo sư... đã được bộ Giáo dục thực hiện theo đề xuất của bản kiến nghị. Giáo sư Trần Văn Hà đã từng viết: Sau này, đọc các cuốn sử do người nước ngoài viết về Việt Nam, tôi thấy nhà báo, nhà sử học Benard Fall đã có một lời đánh giá rất xác đáng từ năm 1962 trong tác phẩm Võ Nguyên Giáp - con người và huyền thoại (Võ Nguyên Giáp - Man and Myth - New York F.P.Publishers, 1962): “Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp với Võ Nguyên Giáp”.

Về Giáo dục Võ Đại tướng đã nhấn mạnh:" Đại tướng khẳng định: Cần phải coi chiến lược con người, “tất cả cho con người và tất cả vì con người” có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những nhiệm vụ lớn lao có tầm quan trọng chiến lược trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH là đào tạo con người phát triển toàn diện, có tinh thần làm chủ và năng lực làm chủ, có tinh thần yêu nước và lý tưởng XHCN, có trình độ văn hoá và khoa học ngày càng cao, nắm vững kỹ thuật và công nghệ sản xuất, kể cả công nghệ và kỹ thuật cổ truyền, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, có cả những công nghệ hiện đại nhất. Đây chính là lực lượng sản xuất vĩ đại nhất, thế mạnh lớn nhất, có sức sáng tạo nhất. Trong sự nghiệp ấy, công tác giáo dục từ mẫu giáo đến đại học và trên đại học có nhiệm vụ cực kỳ to lớn. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục về thực chất phải được coi là một bộ phận quan trọng trong chính sách đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những loại đầu tư có tầm quan trọng chiến lược và đem lại hiệu quả lớn lao "

Từ sự khẳng định: “Sự phát triển của con người là liên tục… Con người là một thể thống nhất với sự phát triển liên tục, không thể chia cắt được trong không gian, trong thời gian”, Đại tướng nhấn mạnh: Giáo dục với tư cách là quá trình hướng dẫn sự phát triển con người, cũng phải liên tục . Giáo dục thế hệ trẻ là một quá trình liên tục từ khi lọt lòng mẹ cho đến lúc trưởng thành và là sự nghiệp của toàn xã hội. Cần phải tạo ra được một môi trường giáo dục thống nhất giữa nhà trường, gia đình và xã hội, đảm bảo “giáo dục toàn diện, giáo dục thường xuyên, giáo dục liên tục”, thực hiện được sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục chính trị, tư tưởng và lối sống XHCN, phổ cập văn hoá, khoa học, kỹ thuật và công nghệ song song với phổ cập nghề nghiệp . Ông chủ trương: cần phải hình thành trong toàn xã hội một phong trào, một nếp sống chăm lo học hành sôi nổi trong cả nước, học ở trường, học ở nhà, học ở xã hội, vừa học vừa làm, theo tinh thần “học tập, học tập nữa, học tập mãi mãi”. Học tập để thành con người mới XHCN, học tập để xây dựng thành công xã hội văn minh và hạnh phúc, học tập để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa . Đại tướng nhận định: Khoa học giáo dục phải là một hệ thống quy luật tổng hợp, chịu sự tác động của các quy luật phát triển kinh tế - xã hội, quy luật nhận thức, quy luật tâm lý xã hội, quy luật phát triển sinh lý, quy luật kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhằm đào tạo thế hệ trẻ từng bước trở thành con người mới XHCN Việt Nam . Vì vậy, cần tập trung trí tuệ, sức lực và các điều kiện vật chất cần thiết để nghiên cứu giải quyết những vấn đề cấp bách nhất, mấu chốt nhất của khoa học giáo dục ở nước ta (tr. 538). Từ bản chất của khoa học giáo dục, ông yêu cầu những người nghiên cứu khoa học giáo dục không những phải có trình độ trong lĩnh vực chuyên sâu mà còn phải có sự hiểu biết về nhiều mặt: về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng, về thực tiễn kinh tế - xã hội của Việt Nam, về con người Việt Nam xưa và nay, về những thành tựu trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học kỹ thuật xưa và nay, về những thành tựu và cả những nhược điểm… của sự nghiệp giáo dục xưa và nay ở nước ta và ở các nước trên thế giới .

Đại tướng cho rằng, giáo dục là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật; nội dung giáo dục bao giờ cũng kết hợp chặt chẽ với phương pháp sư phạm. Vì thế, nội dung và phương pháp dạy - học cần hướng cho học sinh suy nghĩ về các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương,… để khi đi vào đời sống không bỡ ngỡ, không sống theo tập quán cũ… mà tích cực tham gia vào cuộc sống mới. Cần mau chóng và kiên quyết khắc phục tình trạng học sinh phổ thông ra trường không hiểu gì về đất nước, về địa phương; và không thể hiện đầy đủ lòng thiết tha đối với tiền đồ của quê hương, Tổ quốc . Phải kết hợp giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, công nghệ với lao động sản xuất theo ngành nghề ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng lứa tuổi và tính chất của các trường nhằm biến tiềm lực khoa học kỹ thuật của nhà trường thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Phải xác định cho được nội dung, phương pháp tối ưu để đào tạo con em chúng ta thực sự trở thành những người lao động giỏi trong các lĩnh vực và trên các địa bàn của đất nước phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.

Đại tướng phân tích: Chất lượng giáo dục đào tạo là chất lượng toàn diện (chính trị, chuyên môn, sức khoẻ) được xác định trên cơ sở mục tiêu giáo dục đào tạo của từng ngành học, từng loại hình giáo dục, từng cấp học gắn chặt với những mục tiêu kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành từng địa phương trong từng thời kỳ. Đại tướng chỉ rõ: “Tri thức khoa học là một cơ sở rất quan trọng để trao đổi năng lực và phẩm chất đạo đức của con người mới . Vì thế, cần trang bị cho các em những kiến thức cơ bản về tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế, xã hội ở trình độ phổ thông tương đối hoàn chỉnh, cơ bản, hiện đại, Việt Nam, vừa phù hợp với nhu cầu thực tế trước mắt, lại vừa tạo khả năng phát triển về lâu dài… Cần nghiên cứu, lựa chọn kỹ càng để xác định chương trình biên soạn sách giáo khoa cho thật khoa học, thiết thực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng, khối để các em tiếp tục học hoặc đi vào nghề nghiệp. Nhất thiết phải làm và làm ngay, làm cho tốt việc tinh giản phần tri thức cơ bản, để các em có thì giờ học thêm về kiến thức kinh tế, lịch sử, địa lý của địa phương, nghe nói chuyện về các vấn đế thời sự tuỳ theo lứa tuổi, và nhất là học kỹ thuật, công nghệ và tham gia lao động sản xuất. Đại tướng cho rằng: Cần phải giáo dục ý thức lao động, tình cảm lao động, thói quen lao động vì tập thể, vì xã hội ngay từ tuổi thơ, từ vườn trẻ. Phải kiên trì rèn luyện cho học sinh có ý thức sâu sắc về lao động, lao động để xây dựng đất nước phồn vinh, quê hương tươi đẹp, lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, với năng suất cao, chất lượng và hiệu quả tổt. Phải làm cho thế hệ trẻ coi đó là mục tiêu quan trọng để phấn đấu thực hiện. Cần nhận thức rõ rằng, càng làm tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông thì càng có điều kiện để tiến hành có hiệu quả về giáo dục tư tưởng chính trị, đồng thời phát huy mọi tài năng của thế hệ trẻ. Vì vậy, phải kiên quyết khắc phục tình trạng coi nhẹ và tự phát đang phổ biến trong việc hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Theo Đại tướng, nhân tố quyết định đối với chất lượng giáo dục là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục. Vì thế, cùng với việc bồi dưỡng trình độ văn hoá, khoa học và năng lực giảng dạy, nghệ thuật sư phạm cho giáo viên, cần chú ý thích đáng tới việc bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, lòng say mê thiết tha yêu nghề, năng lực … và khả năng vận dụng tri thức và kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Mặt khác, vấn đề chăm lo đời sống giáo viên … có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục. Các nhà trường cần đặc biệt chú ý nghiên cứu những hình thức thích hợp để tổ chức sản xuất, cải thiện đời sống cho giáo viên. Đối với thế hệ trẻ, Đại tướng nhấn mạnh: Tiền đồ rạng rỡ của Tổ quốc Việt Nam nằm trong tay thanh thiếu niên và nhi đồng ...Thanh niên các cháu, tuổi đang trẻ, sức đang mạnh, trí đang độ tiến dần, bao giờ cũng phải biết lấy việc chung làm trên hết. Làm việc gì cũng phải nghĩ đến lợi ích của nước nhà, lợi ích của tập thể, lợi ích của cơ quan trước hết. Chớ có nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, đặc biệt phải chống thói “dĩ công vi tư”. Nước nhà còn nghèo, đang trong công cuộc xây dựng CNXH, thanh niên phải đi trước một bước trong việc xây dựng con người mới XHCN, tức là phải biết cống hiến hy sinh cho lợi ích nước nhà trước, đừng vì lợi ích cá nhân trước mắt mà quên đi lý tưởng phấn đấu cho người dân. 

Võ đại tướng rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển khoa học -kỹ thuật. Hồi ở chiến khu Việt Bắc ông đã khen ngợi những chiến công của Badoca , thấy kỹ sư Trần Đại Nghĩa là người hiền lành, ít nói, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi ông là “Ông Phật làm súng”. Khi đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, được Đảng, Nhà nước giao làm Phó Thủ tướng phụ trách khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, dù công việc rất mới mẻ, nhưng được Đảng tin cậy, Đại tướng đã đi sâu, đi sát từng nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ. Thành tâm, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng cũng như những đề đạt, ý kiến với Đảng và Nhà nước.

Nhờ đó mà Đại tướng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, từng bước đưa khoa học kỹ thuật Việt Nam sánh kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới. Trong công việc nào ông đều để lại dấu ấn sâu đậm. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết: "Ông là một nhà sử học thực thụ với những công trình tổng kết về lý luận, đặc biệt là những tập hồi ức của ông, có thể nói là những kho sử chứa đựng rất nhiều chất liệu để cho đời sau. Vì thế, riêng tôi luôn nghĩ về ông như một người làm nên lịch sử, hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Từ hơn hai chục năm nay, ông là Chủ tịch danh dự của Hội Sử học Việt Nam và tham gia rất nhiều hoạt động sử học như một người thầy thực thụ của giới sử chúng tôi." Sau khi đã nghỉ hưu Đại tướng vẫn theo dõi chặt chẽ các hoạt động liên quan đến công nghệ và môi trường. Trong bức thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Đại tướng đã viết: "Ý kiến phản biện của các nhà khoa học nước ta vừa qua phân tích trên nhiều phương diện, trong các điều kiện kinh tế kỹ thuật hiện nay cũng đi tới kết luận như các nhà khoa học Liên Xô cách đây 20 năm. Với những cảnh báo nghiêm trọng như vậy, chúng ta cần xem xét các dự án này một cách khách quan - cần đánh giá lại quy hoạch khai thác bô-xít trên Tây Nguyên đến 2025.Về quy mô, quy hoạch khai thác bô-xít Tây Nguyên từ nay đến 2025 là một kế hoạch lớn, giá trị ước tới gần 20 tỷ đô-la Mỹ, sẽ tác động sâu sắc nhiều mặt còn hơn cả các công trình kinh tế lớn đã có ở nước ta.Vì vậy nên mời thêm các tư vấn chuyên ngành quốc tế có nhiều kinh nghiệm phối hợp với các nhà khoa học và nhà quản lý của nước ta cùng thẩm định cho khách quan, sau đó báo cáo Bộ Chính trị và Quốc hội xem xét, cân nhắc kỹ càng, không thể chỉ đưa vào đề xuất của các Bộ hay tập đoàn kinh tế. Vừa qua đồng chí Thủ tướng đã quyết định bác dự án nhà máy thép lớn của Hàn Quốc tại vịnh Vân Phong, khẳng định quyết tâm của Chính phủ phát triển kinh tế bền vững, được đông đảo nhân dân và các nhà khoa học đồng tình, ủng hộ. Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng. Tôi đề nghị Thủ tướng cho dừng triển khai các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên và báo cáo Bộ chính trị chỉ đạo tiến hành các nghiên cứu vĩ mô cần thiết làm căn cứ cho mọi quyết định."

Lúc còn khoẻ, mỗi lần về thăm quê, Đại tướng đều hỏi lãnh đạo tỉnh về những người biết vượt khó, khắc phục thiên nhiên khắc nghiệt để vươn lên trong sản xuất, làm giàu cho bản thân, cho quê hương và chủ động đến thăm họ. Đại tướng đã nhiều lần đến thăm mẹ Phạm Thị Nghèng ở Quang Phú (Đồng Hới). Người phụ nữ được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vì thành tích trồng rừng chắn cát - mẹ Nghèng không biên chế, không hưởng lương, nhưng có đến 40 năm trồng rừng chắn cát. Cả một rừng cây phi lao ven biển Đồng Hới bây giờ đều do mẹ và đội trồng rừng của mẹ tạo nên. Hơn thế, mẹ Nghèng là người đầu tiên có sáng kiến dùng đọt phi lao để ươm cây giống (trước đó người ta chỉ biết ươm từ hạt). Lần nào đến thăm mẹ Nghèng, Đại tướng cũng rất xúc động. Ông bảo: “Quảng Bình cát trắng, gió Tây Nam (gió Lào), nếu ai cũng làm được như mẹ Nghèng thì tốt biết mấy!.” Ông nói rằng: “Nếu không có những cuộc chiến tranh và không trở thành một vị tướng cầm quân, tôi rất muốn được làm một người trồng rừng chống cát cho quê hương như mẹ Nghèng”. Một lần khác, khi nghe tin ở vùng đồi Cồn Chay, xã Cự Nẫm (Bố Trạch) có người nông dân Ngô Văn Lý trồng rừng làm kinh tế giỏi, Đại tướng đã yêu cầu lãnh đạo tỉnh đến thăm. Đại tướng rất vui mừng khi biết được, trong lúc đề tài nghiên cứu nhân giống cây huỵnh (tiếng địa phương là huệng- một loại gỗ tốt dùng để đóng tàu thuyền) được các nhà khoa học nghiên cứu nhiều năm mà chưa có kết quả thì ông Lý đã nhân giống để trồng cả một rừng hàng chục ha. Ông Lý còn “chuyển giao công nghệ “ cho lâm trường Nhà nước miễn phí. Ông Lý đã làm cho đất đồi hoang của huyện Bố Trạch trở nên “đắt như tôm tươi” vì nhà nhà nhận trồng huỵnh. Lần đó, trong lúc ông Lý luống cuống vì không ngờ được rằng trong đời mình lại may mắn được đón vị Tổng tư lệnh quân đội mà ông kính phục ngay tại… nhà mình thì Đại tướng đã ôn tồn nói: “Trong lúc Quảng Bình băn khoăn với việc “trồng cây gì, nuôi con gì” thì anh đã chứng minh bằng việc làm của mình. Anh xứng đáng là một chiến sĩ quân đội nhân dân, một cựu chiến binh, một tiến sĩ thực hành như người dân đã phong cho".

 

 

 

 

        ©          http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences2.free.fr  Nguyễn Lân Dũng