Về đào tạo và sử dụng nhân tài

Vietsciences-Gs. Bùi Trọng Liễu       27/02/2005  

 

Mới đây, tôi thấy một số người dùng cụm từ “đào tạo nhân tài”. Đằng sau từ ngữ còn có khái niệm, quyết tâm và cách tiến hành. Vì thế nên tôi đã tìm tra từ điển, rồi lại hỏi thăm đồng nghiệp trong và ngoài nước về ý nghĩa của cụm từ đó, rốt cục cũng chẳng ai giải thích được cho thỏa đáng. Tôi đành thử “đoán” và viết mấy dòng này như những câu hỏi cần được nêu :

1.         Theo cuốn “Từ điển tiếng Việt” , nxb Đà Nẵng-Trung tâm từ điển học, 2001, thì “nhân tài “ là “người có tài năng xuất sắc”, và “tài năng” là “năng lực xuất sắc, khả năng làm giỏi và có sáng tạo một công việc gì”. Và nếu như “tài năng” được hiểu tương đương với tiếng Pháp là “talent” thì cụm từ kể trên làm tôi băn khoăn. Để thanh minh rằng tôi không có ý làm một thứ hủ nho “bới lông tìm vết” dùng câu chữ để bàn ngang, (và vì tôi mong còn được trình bày ý kiến về việc sử dụng và đãi ngộ nhân tài, cũng như về giải pháp cho giáo dục đào tạo) tôi xin được nêu vài thí dụ ở xứ sở tôi định cư và biết, để minh họa :  Kỹ sư G.Eiffel (1832-1923) là một nhân tài, ông là người dựng cái tháp cao hơn 300m hồi cuối thế kỉ 19 ở thủ đô Paris, ông cũng là người xây dựng cái cốt sắt của tượng Nữ thần Tự do của Bartholdi ở ngoài khơi New York, cũng là người xây cất rất nhiều công trình sắt thép nổi tiếng ở khắp năm châu và ở chính Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường kỹ sư Centrale de Paris (nhưng trượt vấn đáp kỳ thi tuyển vào trường Polytechnique, có tiếng hơn). Nói rằng ông và các bạn học đồng khóa của ông đã được đào tạo từ một trường có tiếng nghiêm túc, thì ai ai cũng hiểu. Nhưng không ai dám nói rằng trường đó đã đào tạo ra “tài” cho ông, bởi vì tài năng của ông được phát huy sau khi tốt nghiệp và các bạn đồng khóa của ông không phải nguời nào cũng làm được như ông. Nhà vật lý A.Kastler (1902-1984), (giải thưởng Nobel),và nhà toán học L.Schwartz (1915-2002) (huy chương Fields), hai người “bạn” của Việt Nam trong thời chiến tranh giành độc lập, đều kể là thời các ông còn là cựu học sinh (không cùng khóa) trường Ecole Normale Supérieure và Đại học Paris, các ông không phải là những người học giỏi nhất. Các ông được đào tạo nghiêm túc, nhưng tài năng phát huy sau đó của các ông qua những kết quả nghiên cứu, thì chẳng ai “đào tạo” được cho các ông cả. Doanh nhân L. Renault (1877-1944) chỉ có bằng tú tài, nhưng ai mà không biết tiếng các xưởng sản xuất xe hơi , xe tăng, và cả máy bay của ông trong một thời, vv. và chính trong trận phản công thắng lợi lớn của Pháp ở vùng La Marne đối với Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914, Pháp đã dùng xe hơi taxi Renault để cấp tốc chở quân …

Cũng xin nêu một thí dụ về một người Việt Nam, để lại càng thấy rõ hơn : ông Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) thuở trước du học ở Pháp, đỗ vào trường Polytechnique và sau đó tốt nghiệp trường kỹ sư Cầu đường Ponts et Chaussées là những trường lớn của Pháp. Nhưng khi về nước năm 1934 thì chính quyền thuộc địa Pháp không bổ nhiệm ông vào chức vụ ngang như người Pháp có bằng cấp tương đương, nên ông lại trở sang Pháp học theo ngành khác ở Đại học, thi đỗ cử nhân, cao học rồi thi trúng tuyển đỗ agrégé về Toán (ở đây, tôi không dùng tên gọi  “thạc sỹ” theo kiểu gọi thuở đó, vì ngày nay từ này dùng để chỉ bằng Master). Nhắc lại là agrégé Toán ở Pháp là tên gọi những người thi đậu kỳ thi tuyển cao cấp để ra dạy Trung học; nó khác với agrégé thuở xưa về các ngành Y Dược (nay đã bỏ) và Luật (nay còn tồn tại) để ra dạy đại học. Cho nên khi ông trở về nước lần này 1936, thì được bổ nhiệm dạy ở trường Bưởi, tức trường Trung học Bảo hộ. Còn việc khi đó ông dạy thêm ở Đại học thì là với tư cách giảng viên, vì lẽ rằng qui chế của Pháp rất chặt chẽ về đội ngũ giảng dạy: chỉ có thể là giáo sự đại học (professeur d’université) trong các ngành khoa học và văn khoa-khoa học xã hội, khi hội tụ 3 điều sau đây, là có bằng tiến sỹ nhà nước (docteur d’Etat ès sciences hay ès lettres -  ngày nay được thay thế bằng HDR, Habilitation à Diriger des Recherches), phải được hội đồng khoa học toàn quốc đánh giá công trình nghiên cứu khoa học mà ghi tên trên danh sách những người có thể là ứng viên giáo sư đại học (liste d’aptitude aux fonctions de professeur d’université), và phải được các đồng nghiệp đã là giáo sư đại học bàu vào một “chỗ ” giáo sư trong một đại học. Cho nên thuở ấy, Đại học Đông Dương ở Hà Nội, phụ thuộc Đại học Bordeaux, chưa có giáo sư người Việt Nam. Trong mấy năm giảng dạy, ông Hãn đã góp phần đào tạo đuợc nhiều học sinh giỏi, có người sau này thành đạt lớn. Nhưng giới nghiên cứu biết đến ông Hãn chủ yếu là do các công trình nghiên cứu độc đáo của ông trong các ngành sử, văn học sử, ngữ văn, vv. và coi trọng ông như một học giả uyên thâm, tuy ông chẳng có bằng cấp gì trong lĩnh vực này cả. Vào năm 1951, khi trở lại Pháp sinh sống, ông hành nghề kỹ sư (ông không phải là nhà nghiên cứu về Toán học và không có bằng tiến sĩ trong ngành này; và tôi không hề thấy ông che đậy hay mặc cảm điều đó, chứng tỏ bản lĩnh con người trung thực, trái hẳn với một số người Việt Nam nhập nhằng về bằng cấp và danh hiệu). Trường hợp ông Hãn là một trong những thí dụ rõ rệt nhất về việc được hưởng phương pháp đào tạo đúng đắn nghiêm túc, và rồi từ đó tài năng phát huy không cứ trong ngành mà mình đã từng học. Còn công lao của ông Hãn trong phong trào “Truyền bá quốc ngữ”, trong việc xây dựng danh từ khoa học tiếng Việt, trong việc góp phần đặt nền móng cho một nền giáo dục Việt Nam độc lập, thì lại là một vế khác của vấn đề.

Như tôi đã viết trong cuốn sách “Chung quanh việc Học”, xnb Thanh Niên, Hà Nội 2004, tôi thiết tưởng, ai làm nên sự nghiệp lớn thì là vĩ nhân, độc lập với bằng cấp. Như trường hợp Hồ chủ tịch, việc “học” là ở “trường đời”, như trường hợp Đại tướng Võ Nguyên Giáp việc “học” (quân sự) là do sự tự tìm tòi hiểu biết và nghiền ngẫm. Vấn đề sự nghiệp không nằm trong khuôn khổ của việc đào tạo ở nhà trường.

2.         Tôi đoán : phải chăng cụm từ “đào tạo nhân tài” là câu nói tắt của “đào tạo ra những người có sự hiểu biết đúng đắn, để có thể trở thành những nhân tài cho đất nước”? Tôi thiết tưởng (như tôi dã viết trong cuốn sách “Chung quanh việc Học” đã dẫn trên), một nền giáo dục đào tạo (GDĐT) “hay” cho một xã hội « bình thường » (ở đây, « bình thường » không phải là « tầm thường », mà nghĩa là « lành mạnh »), là giáo dục được những con người « bình thường » thành những công dân « bình thường », đào tạo họ thành những con ngưòi « biết việc », đảm nhiệm tốt những công việc « bình thường ». Trong một xã hội bình thường như vậy, lương đủ sống làm cho ai cũng đảm nhiệm công việc của mình, không phải làm thêm để kiếm của ; xã hội ổn định, nên con người không phải lo tích lũy riêng cho mình, rồi cho con mình, rồi cho cháu mình một cách vô tận; giàu nghèo không chênh lệch quá đáng cho nên tình người tồn tại, vv. Trong xã hội bình thường đó, bằng cấp đánh giá đúng được trình độ hiểu biết, chức danh phù hợp với nhiệm vụ, luật pháp cho phép và bảo đảm cho những người làm ăn lương thiện phát huy được tài năng của họ, và nhân tài t đó mà có. Trong một xã hội bình thường đó, ngành nghề nào cần được tăng cường thì chỉ cần tăng số sinh viên, số người học nghề, số nghiên cứu sinh, và trang bị thêm phương tiện cho ngành đó, mà chẳng cần bàn luận dài dằng dặc về trình độ nào, hạch xát như thế nào, tính số năm dài ngắn như  thế nào, để có được nhân tài.

Lại nhắc lại một câu chuyện mấy chục năm trước đây, một nhân vật cao cấp trong nước hỏi tôi nghĩ gì về khả năng có thể có một người Việt Nam sẽ được giải thưởng Nobel khoa học, và nếu có, thì sự việc đó ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến triển của khoa học ở Việt Nam. Tôi trả lời rằng : nước người ta phát triển khoa học và công nghệ, có đội ngũ khoa học và kỹ thuật đông đảo được sử dụng  tốt, dân chúng có trình độ văn hóa tương xứng; lúc đó sẽ nảy ra những nhà khoa học có khả năng được giải thưởng này. Còn giả thử như đem một nhà khoa học đã có giải thưởng này, đặt vào một nước chưa phát triển, trong một môi trường không phù hợp, thì rốt cục người đó cũng chẳng làm gì được cho ai, mà lại trở thành vô hiệu cho chính bản thân mình. Nay, tôi vẫn tiếp tục nghĩ rằng việc tổ chức GDĐT nên được tiến hành sao cho hợp lý thì nền khoa học của nước nhà sẽ tự nó lên cao, khỏi phải tốn của, mất công tìm kiếm xa vời.

3.         Đã nói tới một nền GDĐT “hay”, thì ngược lại, cũng xin nói đến một nền GDĐT “dở”. Đó là một nền GDĐT chủ yếu chỉ nhắm khuyến khích con người nuôi dưỡng ý tưởng trở thành những danh nhân bản xứ, danh nhân sở tại. Đó là nền GDĐT thuở xưa đã có lúc tng thấy ở nước ta : giáo dục và đào tạo ra những người có chí làm quan, kiểu muốn vinh thân phì gia, hưởng ơn vua lộc nước, nhưng chẳng thiết tha gì mấy đến bàn dân thiên hạ. Trong một xã hội với một nền GDĐT như vậy, người ta coi chức vị như mối lời phải giành lấy, giữ lấy, trao đi đổi lại với nhau, chứ không đặt nặng nhiệm vụ của chức vị, không có ý muốn GDĐT bao trùm mọi ngành nghề liên quan đến đời sống, đến xã hội. Cứ thử nhìn lại mấy môn thi trong mấy khoa thi Hương cuối cùng, nghĩa là vào thời kỳ chuyển từ cựu học sang tân học, thì cũng thấy rõ, không kể sự thô sơ của nội dung học: 1906 (kinh nghĩa, thi phú, văn sách, phúc hạch), 1909 (văn sách, 2 bài luận, quốc ngữ luận, luận), 1912 (4 bài văn sách, 4 bài quốc ngữ, dịch Pháp văn, luận Hán văn và luận quốc ngữ), 1915 ở Bắc kỳ và 1918 ở Trung kỳ (3 bài văn sách, luận quốc ngữ và sử địa, 2 bài tính đố, Pháp văn). Điều chua xót là việc bỏ cựu học chuyển sang tân học lại là do chính quyền thuộc địa áp đặt thực hiện, chứ không phải tự ta. Rồi lại còn vấn đề thi cử kiểm tra. Có người đả kiểm kê so sánh trong thời kỳ quá độ chuyển tiếp đó: Vào những khoảng thập niên 30-40 của thế kỉ 20 dưới thời Pháp thuộc ở nước ta, các học sinh theo hệ thống trường Việt thì từ lúc đi học cho đến lúc thi tú tài, phải thi tất cả 8 lần: sau 3 năm Sơ học, thì thi Sơ học yếu lược; đỗ xong thì phải thi tuyển vào học Tiểu học 3 năm; đỗ xong bằng Tiểu học thì thi tuyển vào học Cao đẳng tiểu học 4 năm, thi bằng Thành chung ; đỗ xong thì thi tuyển vào học 3 năm Trung học, thi tú tài phần 1 rồi tú tài phần 2 (tú tài mới). Còn học trường (kiểu) Pháp mỗi năm học có 3 lần kiểm tra (ngay trong lớp học) mỗi môn, đủ điểm thì lên lớp, không cần thi bằng cấp trung gian, chỉ phải thi thú tài phần 1, rồi thi tú tài phần 2, nghĩa là từ  lúc học đọc học viết đến hết phổ thông, chỉ đi thi có 2 lần; mà học sinh người Việt học trường kiểu này, nói chung, không những đỗ sớm hơn mà còn có thì giờ để trau dồi kiến thức bên ngoài chương trình học chính thức. Có lẽ cũng là điều đáng suy ngẫm cho ngày nay.

Sau 1945, nền Dân chủ Cộng hòa.đã mang lại cho nước nhà độc lập một nền GDĐT tương xứng và đã đáp ng được nhu cầu trong một khoảng thời gian. Nếu nay GDĐT có những bất cập, thì không nên ngần ngại tìm giải pháp thay đổi. Tôi thiết tưởng ngày nay, đất nước không thể thịnh vượng hơn nếu chỉ cứ  nhắm tăng số anh hùng được bàu, tăng các kỳ thi đua (bởi vì cao thấp cũng chỉ là tương đối, “trong nhà nhất mẹ nhì con”), nếu chỉ qui định rằng đang ở chức vụ này thì phải có bằng cấp kia (người ta sẽ tìm cách mua bán bằng cấp, giả mạo trong thi cử, dối trá trong việc làm luận văn), nếu chỉ nhắm nhng tiêu chí kiểu bao nhiêu trường, bao nhiêu thày, bao nhiêu trò, bao nhiêu năm (bởi vì sẽ rơi vào cái cảnh của câu nói trào phúng mà giới khoa học biết : “có ba cách nói dối : nói dối, nói dối trắng trợn, và nói dối theo thống kê ”),  vv. và vv.

4.         Nhưng câu hỏi đáng được chú ý hơn cả là : trong một xã hội mà GDĐT đã “trót không bình thường” như ở ta, thì giải pháp trong cấp bách phải là gì? Tôi thiết tưởng, nói gọn vài nét, cái “hướng” chung phải là : nghiêm phạt những sự gian lận (như cấm thi mươi năm đối với những học sinh quay cóp; có hình án đối với những người tổ chức gian mạo; cất chức những người bao che; truy tố kẻ mạo danh). Những việc ấy sẽ không làm xáo trộn xã hội, mà ngược lại sẽ góp phần mang lại ổn định. Về quan niệm, không thể coi GDĐT là một thứ hàng hóa mua bán kiếm chác lờ lãi, điều mà ở ngay cả những nước có nền kinh tế hoàn toàn tự do họ cũng không quan niệm như vậy. Đấy không phải là một lĩnh vực mà “có tiền mua tiên  (bằng cấp) cũng được”.  Sự hiểu biết và khả năng nghề nghiệp phải là do sự học hành nghiêm túc mà có. Trường công lập hay “ngoài công lập” đều phải có chức năng GDĐT như vậy. Và chính vì thế mà vai trò điều tiết hợp lý của Nhà nước, với một bộ máy quản lý phù hợp, rất là quan trọng, chứ không phải là cứ để GDĐT tự phát  Về cách tổ chức, trong tình hình hiện tại rất phức tạp, một cuộc chấn hưng “toàn bộ” có lẽ khó thực hiện được. Nếu như thực sự chấp nhận là GDĐT đang “không bình thường”, thì phải có biện pháp gỡ mối bòng bong, mà nên gỡ từ trên xuống dưới, dựa trên nhận xét sau đây: có thày giỏi thì mới có trò giỏi; cần có những nhà giáo có sự hiểu biết tương xứng, hơn là những nhà giáo được đào tạo nặng về những cái gọi là phương pháp sư phạm nhưng quá nhẹ về nội dung kiến thức. Do đó, xin nhắc lại một trong những kiến nghị của tôi trong thời gian qua (tôi đã phát biểu chi tiết hơn trong bài tham luận “ Giáo dục đại học: nhắc lại một kiến nghị”) là lập ra một vài cơ sở đại học công lập hoàn toàn “mới”, cỡ nhỏ, đa khoa, không cần đủ các ngành,  nhưng đủ các “cấp” kể cả cấp đào tạo qua nghiên cứu, để có sức quản lý cho tốt để làm gương. Đồng thời cứ để cho các đại học khác tiếp tục tồn tại, dù là công lập, dân lập hay tư lập, kệ họ phát triển tốt, hoặc lay lắt, hoặc biến đi, miễn là đừng đi lệch hướng, để tránh một sự thay đổi đột ngột trong xã hội. Việc lập ra một vài đại học nhỏ, nhưng hoàn toàn “mới” như kể trên, hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế “bình thường”, mang tính cách “hoa tiêu” (“đại học hoa tiêu”), chính là cách tiến hành cuộc chấn hưng có hiệu quả, mà không làm cho các thành phần liên quan bị “hãi”. Đó là con đường “khiêm tốn” và “đỡ tốn kém nhất” dẫn tới chấn hưng GDĐT, để từ đó có triển vọng để có nhân tài cho đất nước.

5.         Còn việc đãi ngộ? Tôi không biết có nên đặt câu hỏi như vậy không, hay là chỉ nên đặt vấn đề sử dụng người vào đúng chỗ. Nguyên tắc thì đơn giản; nó cũng đơn giản như bệnh nhân sắp phải mổ không muốn trao tính mạng mình cho người có bằng bác sỹ nhưng không biết phẫu thuật, đơn giản như khách hàng bỏ tiền mua thực phẩm nhưng không muốn mua phải của ôi, vv. Nhưng đi vào thực tế, thì lại cần có quyết tâm và sáng suốt. Những người đã được đào tạo xong một cách nghiêm túc có được một sự chú ý khác với những trường hợp dỏm như thế nào? Những người được gửi đi du học xong có được khuyến khích trở về chưa, và khi trở về nước đã được sử dụng như thế nào? Có điều gì cản trở sự đề bạt nhng nhà khoa học trẻ để tăng cường cho đội ngũ nhà giáo đại học đã lão hóa? vv. và vv. Ngày nay, chắc ít ai cả tin như Tần Thủy hoàng bỏ tiền bạc sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử ở chốn Bồng Lai, hoặc cả tin như ông vua nào đó trao vàng cho một người hầu khi kẻ này cả quyết có thể dạy trong mươi năm cho một con khỉ biết nói (mươi năm thì khỉ và người cũng đều chết cả rồi!), hoặc cả tin như  Chu Bình Mạn (trong sách Trang tử) bỏ ngàn vàng đi học được cái kỹ thuật giết rồng, rồi chả biết tìm rồng ở đâu mà giết. Vì thế mà vấn đề nhân tài, tưởng dễ mà hóa ra khó.

Có thể rằng vốn tiếng Việt của tôi không đủ chuẩn xác, nên tôi có thể hiểu lầm chăng ? Trong sự hồ nghi còn tồn tại, tôi xin kể câu chuyện sau đây như một thứ kết luận tạm thời. Tôi quen hai anh người Việt Nam định cư ở nước ngoài ; hai anh vốn là bạn thân từ lâu năm, tạm gọi là anh A và anh B. Anh A là nhà khoa học, nhưng cũng là nhà văn nghiệp dư ; anh viết mấy cuốn sách. Anh B là nhà xã hội học, nhưng cũng là nhà phê bình văn học nghiệp dư ; anh B viết bài điểm sách đăng trên báo, khen mấy cuốn sách của anh A. Từ đó, hai anh giận nhau. Tôi hỏi anh B, sao lại giận. Anh trả lời : « Tại tôi khen anh A là nhân tài, anh ấy cho là chưa đủ, vì anh ấy là thiên tài ». Hay là « nhân tài » là những người « bình thường », còn « thiên tài » là hơn thế một chút ?

 

 

© http://vietsciences.free.fr Bùi Trọng Liễu