Những bài cùng tác giả
Một vế trong vấn đề phát triển bền vững là phải có
một nền Giáo dục đào tạo "lành mạnh". Điều
này đã đem ra bàn cãi nhiều rồi, và hầu như đã được
sự đồng thuận, bởi vì trong thời đại xã hội tri thức
và thông tin này, trong khung cảnh toàn cầu hóa mà
sự cạnh tranh luôn luôn hiện diện, "trình độ biết
việc" và "giá trị của tay nghề" càng ngày càng là
những tiêu chuẩn phân định trong cuộc chạy đua kiếm
khách mua hàng, và hơn thế nữa, bao trùm lên cả vấn
đề kinh tế, sự cạnh tranh toàn cầu còn là sự tranh
đua của bản thân chính các xã hội. Nhưng thế nào là
"lành mạnh"?
Theo tôi, nói tóm tắt, một nền Giáo dục đào tạo "lành mạnh" là
: một nền Giáo dục đào tạo có sứ mạng rõ rệt, mang mục tiêu khả
thi, trung thực, mang tính khoa học, phân minh, bảo
đảm được hiệu quả ích lợi cho đất nước, bảo đảm được
sự công bằng cho mọi thành viên trong xã hội , vv.
Vì giới hạn của câu chữ, trong bài này tôi chỉ xin
nêu vài nét chính với thí dụ minh họa tập trung vào
nền Giáo dục đại học:
- 1/ Sứ mạng của đại học là gì, và tại sao ở mức độ
đó, giảng dạy lại phải gắn liền với nghiên cứu khoa
học ? (Tôi dùng từ "đại học" theo nghĩa tôi vẫn
dùng từ trước đến nay, nghĩa là bao trùm cả cái gọi
là "sau đại học" nữa, như Luật giáo dục 1/1/2006
rốt cục đã công nhận trong điều 4.d/ chương I).
Nói vắn tắt bằng một câu : sứ mạng của đại học là mở
rộng biên thùy của sự hiểu biết, mang sự hiểu biết
(đã, đang và sẽ có được) vào cuộc sống ; do đó từ
nghiên cứu cơ bản, tìm cách chuyển sang nghiên cứu
áp dụng, rồi sau đó tìm cách đưa vào sử dụng đại trà
(thí dụ như khâu công nghệ của một số ngành, có liên
kết với các doanh nghiệp), song song với sự chuyển
giao hiểu biết. Từ sứ mạng đó, mới định ra mục tiêu,
qui chế, mới phân biệt phần kiến thức cơ bản và phần
đào tạo nghề nghiệp, mới đưa những phương tiện tài
chính và vật chất vào để thực hiện, mới tính toán
sao cho cân đối ngành nghề hợp với nhu cầu, mới phân
chia vai trò của công lập và tư lập, vv. Sức mạnh
của các nước phát triển cao hiện nay chính nhờ ở
quan niệm đại học như vậy, dựa trên cơ sở một niềm
tin lành mạnh vào khoa học. Nó khác xa với một quan
niệm về một nền đại học nào đó tồn tại trong một số
người Việt Nam, kiểu : "đại học" là nơi nhắm đào
tạo ra những "danh nhân", mà thời thịnh thì giúp
vua trị dân, thời suy thì vinh thân phì gia ; thậm
chí ngày nay còn có ý đòi hỏi nơi đó phải là nơi có
những phương tiện đồ sộ, và tụ tập những nhân vật có
chức danh cao quí (!), nhưng mục tiêu thì lu mờ.
Nguy cơ vụng sử dụng sẽ là : để tồn tại, phải bày ra
những công trình nghiên cứu để chứng minh sự cần
thiết của mình, và để chuyển giao sự hiểu biết về
những phát minh có thể là vô bổ của mình cho những
sinh viên chen đua vào học để có bằng cấp nhắm kiếm
được một địa vị xã hội, và rồi cứ quay vòng như vậy…
Một quan niệm sai lạc như vậy không thể tạo ra những
con người "biết việc" và những "tay nghề có giá
trị" cần thiết cho sự phát triển.
- 2/ Thế nào là một nền Giáo dục đào tạo mang tính khả thi ? Đó
là một nền Giáo dục đào tạo mà mục tiêu phù hợp với khả năng
thực hiện, chứ không phải là với một mục tiêu "hoành tráng" nêu ra – dù không chủ ý để tự dối mình
và dối người – xa rời thực tế của nước mình. Một nền
giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học mang tính
khả thi ở nước ta hiện nay, không mơ tưởng đến những
lĩnh vực khoa học mà mình chưa cần với tới, đến
những lĩnh vực "khoa học bự» (tôi dịch chữ "big
science" : kiểu dự án ITER, trung tâm CERN, thám
hiểm vũ trụ,...), mà tập trung vào những lĩnh vực
không cần đầu tư tốn kém lắm và chỉ cần những công
nghệ trong tầm tay của ta, với một đội ngũ chuyên
gia có đủ hiểu biết : thí dụ như những lĩnh vực về
năng lượng tái tạo, vv. để nâng mức sống, mà không
gây ra tai họa. Không ai may áo cỡ 18 tuổi cho một
trẻ em 10 tuổi, vừa tốn vải, vừa ngây ngô khó coi ;
chiếc áo đẹp là chiếc áo may vừa cỡ tuổi, dần dần
lớn lên thì mới may áo rộng.
- 3/ Thế nào là một nền Giáo dục đào tạo mang tính trung thực?
Đó là một nền Giáo dục đào tạo mà bằng cấp đánh giá đúng được
trình độ hiểu biết, danh hiệu phù hợp với chức vụ,
với nhiệm vụ. Nền Giáo dục đào tạo đó không chạy theo thành tích
với bất cứ giá nào. Có những con số thống kê mà
người ta đem ra để đánh giá trình độ của một đại
học. Phải hiểu đó là một phần những tiêu chí để đo
một thực trạng, chứ không phải là "điều kiện đủ"
để đạt trình độ. Không thể dùng những con số đó như
những mục tiêu, với sự khù khờ hay ẩn ý bên trong :
Cần đạt tỉ số "bao nhiêu sinh viên/ 1 vạn dân" ?
Cứ mở vung vãi nhiều "đại học", tuyển sinh cho
nhiều dù có phải giảm điểm sàn, thì cũng đạt được.
Cần đạt tỉ số "bao nhiêu sinh viên/1 nhà giáo" ?
Cứ tuyển bừa nhà giáo có trình độ hay không, thì
cũng đạt được. Cần "bao nhiêu tiến sĩ, thạc sĩ"
cho những năm tới ? Nếu coi bằng cấp chỉ là những
mảnh giấy có đóng dấu, thì giấy tờ và con dấu rất dễ
tạo. Nhưng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, không đơn giản
như vậy.
- 4/ Thế nào sự rạch ròi của một nền Giáo dục đào
tạo lành mạnh?
Đó là sự biết phân biệt vài trò hệ công lập và hệ tư
lập. Tư nhân mở trường là một sự lựa chọn cá nhân,
kể cả trong mục tiêu thiện chí. Nhà nước mở trường,
là một bổn phận bảo đảm được cho Giáo dục đào tạo vai trò
"lò
nung đúc trí tuệ của dân tộc" trong sự liên tục và
có thừa kế, bảo đảm công bằng xã hội cho mọi công
dân trong việc học tập, bảo đảm được hướng đi lên,
đại trà và/hoặc tinh hoa, bảo đảm chất lượng cũng
như số lượng người có trình độ hiểu biết, có nghiệp
vụ cao, vv . Ngay trong khung cảnh giả thuyết tư và
công đều vô vị lợi, tư nhân mở trường phải tính toán
để tồn tại, cho nên trường tư có thể chọn những
ngành đầu tư ít mà chóng có hiệu quả ; còn Nhà nước,
nơi "cầm trịch", có bổn phận phải (ít hay nhiều)
đảm nhiệm mọi ngành, đặc biệt là các ngành cần đầu
tư lớn, dài hạn, hoặc mang tính chất chiến lược – ở
đây, đừng lẫn lộn với chuyện bao cấp vô tội vạ –
liên quan đến cả vấn đề độc lập tự chủ và thống nhất
của đất nước. Vì vậy, khẳng định rằng "công lập"
và "tư lập" cũng như nhau, là một khẳng định khiên
cưỡng. Lại có vấn đề tham gia của doanh nghiệp vào
Giáo dục đào tạo. Có ý cho rằng doanh nhân sử dụng nhân công đã
được đào tạo, vậy thì họ phải chịu hoàn toàn gánh
mảng đào tạo nghề nghiệp kỹ thuật. Ý này có phần
đúng mà cũng có phần không đúng, bởi vì doanh nghiệp
phát triển thì doanh nhân, dù có lợi riêng, cũng góp
phần làm giàu cho đất nước ; họ được hưởng, nhưng
cũng có phần đóng góp. Nhưng cũng như đã nói trên,
họ không có "vai trò chủ trì" như Nhà nước, cho
nên sự tham gia của doanh nghiệp tuy là cần thiết
(về mặt nội dung đào tạo cũng như về mặt tài chính –
ở một số nước có thứ thuế mà doanh nghiệp phải đóng
đặc biệt cho quĩ đào tạo nghề nghiệp), nhưng không
thể hoàn toàn giao phó hẳn một mảng đào tạo cho
doanh nhân.
- 5/ Thế nào là một một nền Giáo dục đào tạo mang tính khoa học
(theo nghĩa rộng) ? Xin lấy vài thí dụ tóm tắt thay
cho câu trả lời:
a) Trong một nền Giáo dục đào tạo mang tính khoa học, không có
chỗ cho những tình trạng phi lý, dẫn tới sự tồn tại
những công trình nghiên cứu mà kết quả được khẳng
định mà không có chứng minh.Thí dụ như bón lúa bằng
mắt nhìn.
b) Trong một nền Giáo dục đào tạo mang tính khoa học, không có
những qui định kỳ lạ để đánh giá công trình khoa học
theo kiểu hành chính, dùng số lượng để đánh giá chất
lượng, thí dụ như muốn thành giáo sư (GS) thì phải
có bao nhiêu ấn phẩm, dài, ngắn thế nào vv. Ai đã
từng thực sự hành nghề khoa học đều biết là giá trị
phụ thuộc vào nội dung công trình. Có những giải
thưởng lớn (như giải Nobel) được trao mà nội dung
công trình chỉ chứa đựng trong một vài ấn phẩm. Thời
gian phát minh cũng không cứ là phải dài (*), trong
khi có những ấn phẩm được rặn ra cả mớ, mà không
mang lại được ích lợi gì. Trong một nền Giáo dục đào
tạo mang
tính khoa học, cũng không thể có chỗ cho một qui
định loại : muốn là GS thì phải thạo tiếng Mỹ và chỉ
tiếng Mỹ thôi – tại sao một chuyên gia về văn hóa
Tây Ban Nha, hay văn hóa Pháp, hoặc văn hóa Chăm lại
phải chịu tiêu chuẩn đó ? Không nên lẫn lộn "nên"
và "phải". Thiết tưởng những nhà quản lý chỉ nên
có những qui định về cơ cấu – thí dụ như có hay
không có "Hội đồng nhà nước công nhận tư cách ứng
viên GS", "Hội đồng khoa học tuyển chọn GS của
từng đại học" – còn về nội dung đánh giá thì cứ để
cho các nhà khoa học thành viên các hội đồng đó
quyết định với nhau, như ở các nước đã phát triển
vẫn làm.
c) Trong một nền Giáo dục đào tạo mang tính khoa học, tất nhiên
cũng không có chỗ cho sự nhập nhằng, lẫn lộn về khái
niệm về "chức vụ" và "hàm-chức danh" cho nhà
giáo, giải thích, bàn cãi cả mấy năm vẫn chưa tỏ.
Nay tôi đành lấy hiệu ăn – không nghề nào là ti tiện
cả – làm ví dụ : ở hiệu ăn có một người đầu bếp, có
phụ bếp, có nhân viên phục vụ dọn ăn, vv. Nếu người
đầu bếp thôi việc, hay về hưu, thì tuyển một người
đầu bếp mới, hoặc từ người ngoài, hoặc từ những
người phụ bếp, miễn là họ biết nấu ăn. (Nếu là hiệu
ăn lớn, có thể có hai, ba đầu bếp, nhưng con số được
qui định sẵn tùy số thu nhập, nếu không thì hiệu ăn
sạt nghiệp). Chứ không phải rằng có một hội đồng
toàn quốc nào đó của các hiệu ăn, hàng năm họp "phong chức danh" đầu bếp cho một số nhân viên của
các hiệu ăn vì họ biết nấu ăn, mà chẳng cần biết xem
hiệu ăn A đang cần một người đầu bếp, hiệu ăn B đã
có người đầu bếp rồi , để đến nỗi có hiệu ăn nhỏ có
cả chục đầu bếp, có hiệu ăn lớn thì chẳng có đầu bếp
nào.
d) Cũng mang tính khoa học, khi không lẫn lộn người
"giỏi", với người "có trình độ" : một cô ý tá "giỏi", thủ khoa khi tốt nghiệp y tá, cũng không thể
thay thế một cô bác sỹ giải phẫu tốt nghiệp đội
bảng.
- 6/ Một nền Giáo dục đào tạo lành mạnh cũng là một nền
Giáo dục đào tạo
biết rút kinh nghiệm từ nơi khác mà không bắt chước
một cách rập khuôn. Xin nêu vài thí dụ, dù rằng
chúng thuộc khía cạnh thứ yếu:
Thí dụ thứ nhất là vấn đề "khuôn viên" (campus)
đại học "điển hình" nào đó: khang trang, hội tụ
đầy đủ những phương tiện vật chất, tập trung được
mọi ngành, nơi mà nhà giáo và sinh viên có những
điều kiện học tập và sinh hoạt tối ưu. Nhưng hình
như một số khuôn viên đại học điển hình như vậy được
xây dựng đã lâu đời, ngay từ thuở thành phố được qui
hoạch, cho nên nằm ngay trong nội thành ; đó là chưa
kể đến những phương tiện di chuyển tương đối dễ
dàng. Cách đây vài chục năm ở châu Âu, đặc biệt là ở
Pháp, người ta cũng xây cất một số "khuôn viên"
đại học mới, nhưng lại ở ngoại thành, (vì lý do dễ
hiểu : đất rẻ) ; đến chiều và đến cuối tuần thì "vắng như chùa bà Đanh" . Ngược lại, tôi đã từng
hành nghề mấy chục năm ở đại học không có khuôn viên
tập trung, nhưng giữa lòng thủ đô Paris ; tuy có
những nhiêu khê, nhưng cũng có những thuận lợi, thí
dụ có thể tổ chức những lớp giảng vào những giờ muộn
chiều tối, mà cả những người đang đi làm kiếm sống
cũng có thể tham dự. Đó là chưa kể đến vấn đề sinh
viên cư trú trong gia đình, đỡ tốn kém, vì chỗ ở cho
sinh viên ký túc xá không phải là vô hạn, vv. Cho
nên cũng cần có sự cân nhắc, liệu cơm mà gắp mắm.
Thí dụ thứ nhì là tình trạng biên chế và hợp đồng
cho nhà giáo đại học. Thoạt đầu phải trải qua khâu
làm nghiên cứu để có luận án tiến sĩ, để rồi sau đó
lúc hành nghề, tiếp tục nghiên cứu và giảng dạy. Có
những ngành nhiều trắc trở hơn những ngành khác –mà
lại mang tính chiến lược – trắc trở vì cần trang bị
nặng, vì kết quả bấp bênh, giả thử như đeo đuổi
nghiên cứu làm luận án, chắc gì đã có kết quả ; rồi
khi đã có bằng cấp sau nhiều năm gian nan, nếu công
việc làm ăn bấp bênh, thì rốt cục "có đáng đi vào
những ngành đó hay không ?". Đa số sinh viên sẽ bị
ám ảnh bởi câu hỏi này trước khi vào ngành, và chính
những người trong ngành cũng có thể bỏ ngành. Vì
vậy, nếu không có chính sách khuyến khích và bảo hộ,
thì sẽ gây ra tình trạng mất cân bằng về ngành nghề,
không những ảnh hưởng xấu đến phát triển, mà còn có
thể gây xáo trộn trong xã hội. Cho nên không thể –
vì những trì trệ thời bao cấp vô trách nhiệm – đơn
giản nói rằng nên thay thế "biên chế" bằng "hợp
đồng", để kích thích sự cạnh tranh để nâng cao chất
lượng.
Phải chăng hiện nay, một số nước đang phát triển
nâng được mức tăng trưởng của mình phần nào là nhờ ở
nhân công rẻ và cạnh tranh ở những lĩnh vực không
đòi hỏi tri thức cao, và chịu chấp nhận những điều
kiện lao động ít bảo đảm ? Tới một lúc nào đó, nếu
như đời sống khấm khá hơn, khung cảnh đó sẽ thay
đổi. Lúc ấy, không thể lem nhem. Lấy đâu ra những
người "thực sự biết việc" ở mọi mức : kỹ thuật,
qui hoạch, dự báo, tham mưu hay ở mức quyết định
đường lối vv., để bảo đảm tiếp tục được sự phát
triển, nếu họ không được "ra lò" từ một nền Giáo dục
đào tạo "lành mạnh" ?
 |
 |
Maria Goeppert-Mayer
Nobel Vật lý 1963 |
Enrico Fermi Nobel
Vật lý 1938 |
______
(*) Một giai thoại: Năm 1963, bà Maria
Goeppert-Mayer được giải Nobel Vật lý (đồng thời với
2 nhà vật lý khác). Nghe kể là trong buổi nhận giải,
bà ta phát biểu: "Tôi đạt được giải này trong vòng
20 phút [ngụ ý : chỉ nghiên cứu trong 20 phút], nhờ
có ông Fermi". Sự tích là trong một buổi xêmina của
ông Fermi nhiều năm về trước, bà ta trình bày sự "không thành công" trong việc xây dựng một mô hình
về cách cấu tạo hạt nhân và nhân của nguyên tử. Ông
Fermi hỏi bà : "Bà đã thử sử dụng cách ghép
Spin-orbit chưa ?". Bà ta trả lời là chưa. Sau
xêmina, hai người về phòng làm việc để thảo luận
thêm, nhưng vừa ngồi thì ông Fermi bị có người gọi
điện thoại. Câu chuyện qua điện thoại kéo dài, dài
tới 20 phút. Trong khi đó, không biết làm gì, bà này
ngồi tính. Khi cú điện thoại của ông Fermi chấm dứt,
bà bảo ông: "Tôi đã tính xong, và kết quả đúng".
Và bà đề nghị ông ký chung ấn phẩm về kết quả mà bà
đã tìm thấy, nhưng ông trả lời: "Không, những người
GS đại học như chúng tôi ăn lương, thì có bổn phận
phải làm những nhận xét ở xemina như tôi đã làm".
Cái kết quả mà bà ta tìm thấy bữa đó mang lại cho bà
ta giải thưởng nói trên.
Bùi Trọng Liễu
Nguyên giáo sư đại học (Paris, Pháp)
Thời Báo Kinh tế Sài gòn đăng 1 phần ngày 16/2/2006
Tia Sáng đăng ngày 20/2/2006.