Từ mấy chục năm, trong thời còn chiến tranh hay
sau ngày hòa bình thống nhất, trước hay sau thời
đổi mới, dưới dạng thư điều trần gửi các cấp
lãnh đạo hoặc những năm gần đây qua các bài báo,
tôi không ngừng kiến nghị về sự cần thiết tổ
chức và quản lý giáo dục đào tạo sao cho phù hợp
với tình hình tiến triển của đất nước. Tôi xin
được tóm tắt lại dưới đây một số điều tôi
đã phát biểu (và dẫn các bài tôi đã viết). Ngoại
trừ những lời tôi kiến nghị nên tách rời nhiệm
vụ quản lý với nhiệm vụ khoa học (thuở còn chiến
tranh), lập học vị tiến sĩ, phong lại chức danh
giáo sư đại học để ổn định trật tự khoa học (mấy
tuần trước ngày giải phóng) như tôi đã kể trong
[1], những điều tôi đã kiến nghị là :
1/
Nên có một nền giáo dục công lập mạnh, vì vai
trò cần thiết của Nhà nước (năm lý do : bảo đảm
sự bình đẳng và sự công bằng cho mọi công dân
trong xã hội; bảo đảm được sự đầu tư lớn và dài
hạn; góp phần bảo vệ sự thống nhất và thuần
nhất; bảo đảm được sự liên tục và thừa kế về trí
tuệ; giáo dục đào tạo là một trong những vế
chính của nền độc lập tự chủ) (xem [2]). Mặc dù
năm 1988 tôi là người đã khơi ý cùng với 5 anh
chị trong nước khởi xướng và được chính quyền
cho phép thành lập đại học “dân lập” đầu tiên
(xem [1]), tôi vẫn nghĩ rằng nước nhà nên có một
nền giáo dục công lập phát triển đại trà, song
song với một hệ thống giáo dục dân lập tư lập
đóng vai trò bổ sung (xem [3]). Việc cho phép mở
đại học “dân lập” đã góp phần giải tỏa được vấn
đề “lý lịch trong việc học” và một số điều tích
cực khác. Nhưng sự “quá đà” trong việc phát
triển hệ giáo dục tư lập (có thể bị dư
luận coi như một thứ từ bỏ trách nhiệm của nhà
nước, vì đẩy gánh nặng sang phía công dân), một
số trường hợp lạm dụng giáo dục để kinh doanh,
học phí nặng, luật lệ “bó buộc đi học tới một
tuổi nào đó” nhưng lại không bảo đảm miễn phí, sự
bất công trong việc học qua gia cảnh giàu
nghèo, vv., là những nghịch lý, không phù hợp
với sở nguyện của tôi.
2/ Tôi có nêu hai mục tiêu chính của giáo dục
đào tạo, (xem [4] và [5]):
(a) Tạo lập một cơ sở tri thức, văn hóa cho con
người và xã hội (bởi vì một xã hội tiến bộ chỉ
có thể là tập hợp của những con người có trình
độ hiểu biết cao; và bởi vì “học” là nhu cầu tri
thức của mỗi cá nhân, cần phải được
đáp ứng).
(b) Đào tạo chuyên môn nghề nghiệp: để đáp ứng
cho các khu vực sản xuất, kinh tế, hành chính và
cho các hoạt động xã hội khác của đất nước; đồng
thời cho mỗi cá nhân một (hay những) chuyên môn
nghề nghiệp, để mưu cuộc sống và để thực hiện
vai trò của mình trong xã hội.
Với những thăng trầm, tới nay tôi vẫn có cảm
tưởng là những mục tiêu này chưa được quan tâm
đúng mức.
3/ Về cách tổ chức giáo dục đại học, tôi có nêu
một số nhận xét (sự tồn tại của một hệ thống đại
học và cao đẳng công lập phức tạp và quản lý
không nhất quán, tản mạn và lãng phí) và có đề
nghị những giải pháp tháo gỡ. Thí dụ như thay vì
tuyển sinh quá sớm (ngay từ ở mức tú tài) vào
những trường đại học nghề nghiệp, nên tổ chức
học cơ bản chung ngành trước khi đào tạo chuyên
nghề, để tiết kiệm được phương tiện và nhân lực
; đồng thời nên theo xu hướng chung của thế giới
hiện nay : nên tránh việc đào tạo chuyên
môn quá hẹp theo kiểu tiếp thu những công thức
kỹ thuật đồng thời lại nhẹ vế kiến thức cơ bản,
vì khoa học kỹ thuật tiến nhanh, nếu sinh viên
bị đào tạo quá hẹp, khi vào đời sẽ không thể cập
nhật nổi (xem [6] và [7]).Tôi cũng kiến nghị bỏ
những môn học vô ích, tốn thì giờ, sức lực và
tiền bạc (xem [8]). Tôi có cảm tưởng là những
kiến nghị của tôi không được bộ máy quản lý giáo
dục đào tạo chú ý.
4/ Trên thế giới hiện nay, giáo dục đại học luôn
luôn gắn liền với nghiên cứu khoa học. Tôi có
kiến nghị hình thức tổ chức liên kết sao cho phù
hợp với sự tiến triển (xem [9]). Tuy một số cải
cách đã phù hợp với ước mong của tôi (như việc
chỉ có một học vị tiến sĩ), cách tổ chức cấp
“đào tạo qua nghiên cứu” hiện nay chứng
tỏ rằng bộ máy quản lý vẫn quá quen thuộc và gắn
bó với cách tổ chức kiểu Liên Xô cũ, đồng thời
lại mơ tưởng đạt hiệu quả theo kiểu Mỹ và Tây Âu
(xem [10] và [11]). Đây là điều phi lý đáng
tiếc.
5/ Trong một tinh thần muốn phát triển đất nước,
việc gửi du học sinh và nghiên cứu sinh ra nước
ngoài học hỏi và nghiên cứu là một việc chính
đáng và cần thiết. Nhưng với việc dùng của cải
chung của đất nước và dùng viện trợ nhận được từ
các nước ngoài để thực hiện việc gửi người ra
nuớc ngoài này, nếu không có một chính sách phù
hợp để đón nhận và khuyến khích sự trở về của
những du học sinh, du nghiên cứu sinh đã thành
tài, thì khác nào như chính mình lại tổ chức
“chảy máu chất xám” của chính dân tộc mình. Đó
là những điều tôi đã phát biểu trong bài [12].
6/ Trong một nền giáo dục đào tạo nghiêm túc,
bằng cấp, học vị đặt ra là để đánh giá sự hiểu
biết thực sự ; chức danh đặt ra là để đáp ứng
với nhiệm vụ phải thực hiện. Đó không phải là
thứ hàng mã chế ra để phô trương, ngộ nhận tiếm
xưng hay để ban thưởng (xem [13]). Lại càng
không nên lẫn lộn chức và hàm. Nếu muốn ban
thưởng đã có cách khác, thí dụ như tổ tiên ta
thuở trước đã biết giải quyết qua việc “bán
hàm”, đó là một tấm gương mà hiện nay nên suy
ngẫm. Đó là nội dung của bài [14].
7/ Một trong những vấn đề cấp bách nhất hiện nay
là vấn đề nhà giáo đại học, bởi vì có thày đủ
trình độ hiểu biết thì mới có trò có trình độ
hiểu biết, có thày dạy đúng thì mới có trò hiểu
đúng, có nhà giáo đại học giỏi thì mới có nhà
giáo trung học tiểu học giỏi. Do đó, trong nhiều
năm, tôi đã đề nghị một hình thức tuyển nhà giáo
đại học sao cho phù hợp, công bằng và có hiệu
quả nhất cho nền giáo dục đại học nước ta
([15,16,17]). Nhưng rồi sự cải cách từ hình thức
“phong hàm” giáo sư chuyển sang hình thức công
nhận “chức danh” cũng chẳng khác nhau mấy tí về
nội dung và về cách tiến hành. Thêm vào đó, là
vấn đề nhà giáo cho các trường đại học dân lập
hiện nay hoàn toàn chưa vào nề nếp. Trong tình
hình đã trót như ngày nay, chi bằng nhà
nước nên cho phép mỗi cơ sở dân lập đó tự tuyển
và trao danh hiệu giáo sư theo cấp bậc của chính
họ qui định, như kiểu các truờng đại học Mỹ và
Canađa, vv. Như vậy còn hợp lý hơn là tình trạng
đầu Ngô mình Sở hiện nay, với những chức danh
giáo sư do nhà nước phong, mà các đại học dân
lập vay mượn dùng ké, qua những cán bộ giảng dạy
kiêm nhiệm công và tư.
Mặc dù cấp lãnh đạo có quyết tâm, cuộc chấn
chỉnh nền giáo dục đào tạo chỉ có hy vọng dần
dần thành công nếu như bộ máy quản lý thích ứng
được với tình hình, và nếu dư luận thực
sự chú ý.
_____________
[1] Tưởng nhớ một người thân, trong cuốn
“Giáo sư Tạ Quang Bửu, con người và sự nghiệp”,
nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
[2] Về vai trò của Nhà nước trong giáo dục
đại học, Tia Sáng tháng 12/1998.
[3] Vài suy nghĩ về “công học” và “tư học”,
Tuần Tin tức 10/4//1993 và Quê Hương
tháng 7/1993.
[4] Góp ý kiến về việc học (viết chung
với Phan Đình Diệu), Nhân Dân 27/12/1987,
và Tuổi Trẻ 19/11/1987.
[5] Kiểm lại một số ý kiến góp về việc
học, Nhân Dân Chủ Nhật 24/10/1993.
[6] Vài điểm về tổ chức giáo dục đại học,
nhìn từ ngoài, Tia Sáng tháng 9/1999,
Nhân Dân 1/12/1999.
[7] Đại học sư phạm, một vấn đề khó bàn,
Tia Sáng tháng 10/2002.
[8] Kỹ thuật giết rồng, Tia Sáng
tháng 2/2003.
[9] Vài suy nghĩ chung quanh vấn đề « đào tạo
qua nghiên cứu », Tia Sáng tháng
11/1998.
[10] « Sau đại học », một cụm từ khó hiểu,
Tia Sáng tháng 6/2002.
[11] Một viện Hàn lâm khoa học lúc này ở Việt
Nam ?
Nông Nghiệp Việt
Nam,
29/11/2001.
[12] Du học và chất xám, Tia Sáng
tháng 12/2002.
[13] Vài phô trương không cần thiết,
Nông Nghiệp Việt Nam, 16/5/2002
[14] Bán Hàm, Nông Nghiệp Việt
Nam,
15/4/2002.
[15] Vài câu hỏi về chức danh giáo sư đại
học, Tia Sáng tháng 2/1999.
[16] Vài điểm trong tổ chức giáo dục đại học,
Hội thảo khoa học « Giáo dục Việt
Nam, hiện trạng, thách thức và giải pháp »,
Hà Nội 23/9/1999.
[17] Trình tự đảo lộn, Tia Sáng
tháng 7/2002.
[*]
« Thời Báo Kinh tế Sài Gòn »
đăng trên số báo ngày 25/3/2004, trang
37-38