|
Nhà sử học Phan Phu Tiên
Phan Phu Tiên người làng Vẽ (Đông Ngạc,
huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội),
một làng trù phú nổi tiếng về nghề
song, mây đan lát cổ truyền. Ông tên chữ là
Tín Thần, tên hiệu là Mặc Hiên. Tại khoa
thi cuối cùng của nhà Trần tổ chức
ở Thăng Long vào năm Bính Tư, niên hiệu
Quang Thái thứ 9 đời Trần Thuận Tông
(1396), ông đă đỗ Thái học sinh. Ông là nhà
sử học, nhà nghiên cứu văn học và nhà
giáo nổi tiếng, người có công lớn
trong việc soạn thảo quốc sử đầu
thời Lê, đồng thời cũng là người
khởi đầu việc biên soạn bộ
hợp tuyển thơ ca đầu tiên của
Việt Nam.
Sau khi thi đỗ, Phan Phu Tiên được vào làm
việc ở Quốc sử viện và Quốc
Tử Giám, hai cơ quan nghiên cứu học
thuật và đào tạo nhân tài quan trọng
bậc nhất đương thời. Sau suốt
một thời gian dài tới trên 1/4 thế kỷ,
kể từ cuối những năm 90 thế
kỷ 14 cho tới năm 1429, ông mới lại
dự thi khoa Minh Kinh dưới thời Lê Thái
Tổ; sau đấy không thấy sách vở, tài
liệu nào ghi chép ǵ thêm về người danh sĩ
họ Phan này.
T́nh h́nh đất Việt lúc đó đang
trải qua những cơn biến động
dữ dội. Trong thời gian giữ chức Đồng
tu sử ở Quốc sử viện, ông bắt tay
vào biên soạn bộ Việt âm thi tập - công tŕnh
mở đầu việc nghiên cứu, giới
thiệu thơ ca các đời ở Việt Nam.
Niềm tự hào về truyền thống văn hóa
lâu đời của dân tộc, ḷng trân trọng
đối với di sản tinh thần của
tiền nhân và những nhận thức sâu sắc
về vai tṛ của văn chương nghệ
thuật đă thúc đẩy ông vượt qua
mọi khó khăn, ra sức hoàn thành công tŕnh có
ư nghĩa lớn lao này.
Mùa thu năm Quư Sửu, niên hiệu Thuận Thiên
thứ 6 đời Lê Thái Tổ (1433), bộ
hợp tuyển Việt âm thi tập về căn
bản đă hoàn thành. Phan Phu Tiên viết lời
tựa với những lời tâm huyết như
sau: "Trong ḷng có chí hướng ắt sẽ
thể hiện thành lời. V́ vậy, thơ là
để nói lên cái chí của ḿnh... Các bậc
đế vương, công khanh, sĩ đại phu
mấy đời gần đây, chẳng ai không
quan tâm đến học thuật, vẫn thường
sớm tối ngâm vịnh, diễn tả nỗi ḷng
sâu kín, đều có thi tập lưu hành ở
đời nhưng do binh lửa nên đă thất
truyền, tiếc thay!... Các bậc quân tử sau này
có ḷng sưu tầm rộng khắp, rồi
xếp đặt thành quyển, thành tập,
mới mong khỏi phải thở than v́ bỏ sót
mất hạt châu trong biển cả".
Sách chưa kịp khắc in th́ Phan Phu Tiên
được cử giữ chức An Phủ
sứ ở tỉnh ngoài (Thiên Trường, Hoan Châu).
Việt âm thi tập được Thị ngự
sử Chu Xa vâng lệnh triều đ́nh biên
soạn tiếp. Sau hơn 10 năm sưu tầm,
chỉnh lư, sắp xếp, bản thảo Tân
tuyển Việt âm thi tập do Chu Xa biên tập
đă hoàn thành vào năm 1459, được Hàn Lâm
học sĩ Lư Tử Tấn hiệu chỉnh,
rồi cho khắc in. Theo bài tựa của Lư
Tử Tấn th́ Tân tuyển Việt âm thi tập
thu thập được hơn 700 bài thơ
(sắp xếp thành 7 quyển). Bản in lần
đầu đă thất tán từ lâu. Hiện nay
chỉ c̣n được thấy ba quyển đầu
của lần tái bản năm 1729.
Sau một thời gian làm quan ở tỉnh ngoài, năm
1448, Phan Phu Tiên lại được triệu
về kinh, sung chức Quốc Tử Giám bác sĩ
tri Quốc sử viện, vừa giảng dạy
ở Quốc Tử Giám lại vừa trông coi công
viện của Viện quốc sử. Năm ất
Hợi, niên hiệu Diên Minh thứ hai đời Lê
Nhân Tông (1455), vâng lệnh nhà vua, ông bắt tay vào
biên soạn bộ Đại Việt sử kư
tục biên (nối tiếp theo Đại Việt
sử kư của Lê Văn Hưu), chép việc
từ đời Trần Thái Tông cho đến khi
quân Minh rút về nước (từ năm 1226 cho
tới năm 1427), gồm 10 quyển. Đại
Việt sử kư tục biên nay đă thất
truyền, nhưng Ngô Sĩ Liên đă dựa vào
bộ sử này để biên soạn những
phần có liên quan trong Đại Việt sử kư
toàn thư.
Ngoài Việt âm thi tập, Đại Việt
sử kư tục biên, tương truyền ông c̣n
viết Quốc triều luật lệnh, Bản
thảo thực vật toản yếu, cũng đều
thất truyền. Toàn Việt thi lục do Lê Quư
Đôn biên soạn có chép ba bài thơ của ông:
Vi nhân cầu giáo (Làm người cần phải
học tập), Hạ gián nghị đại phu
Nguyễn ức Trai và Đương đạo Lương
Phán quan nhậm măn (Tặng ông phán quan họ Lương
hết hạn nhậm chức), lời thơ b́nh
dị nhưng chứa đựng nhiều ư tưởng
khá sâu sắc, nêu cao truyền thống hiếu
học, trọng nghĩa t́nh, chăm lo việc dân,
việc nước của nho sĩ Việt Nam.
Hiện nay ở làng Đông Ngạc (huyện
Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) có nhà thờ
Phan Phu Tiên với bức hoành phi mang ba chữ Khai
Tất Tiêu, nhắc nhở tới vinh dự
của người đỗ đại khoa đầu
tiên ở làng này
|