|
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm
1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại
(nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại
thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia
đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng
thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai
thân mẫu đều là những người có văn
tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ
sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo
kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là
người giỏi giang văn tài và tinh thông địa
lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn
Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời,
thấy con mình có tướng mạo khác thường,
bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành
một tài năng giúp nước, cứu đời.
Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh
Khiêm sớm tìm được thầy học có
đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn
Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ
mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại
gặp thầy giỏi khác nào như rồng
gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng
kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài
học vấn uyên thâm của ông đã vượt
xa thầy. Tương truyền Lương Đắc
Bằng là người giỏi lý học, đã
đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho
học trò, nhưng có những điều trong sách
ấy Lương Đắc Bằng cũng không
hiểu được mà chỉ có Nguyễn
Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.
Lớn lên trong một giai đoạn lịch
sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố
kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc
Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra
một triều đại mới. Thế là
suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn
dật, không thi thố được tài năng. Mãi
tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông
mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi
Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu
và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm
quan với tân triều, nhà Mạc phong chức
Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba
trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất
trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng
triều đại nhà Mạc có thể xây
dựng lại đất nước. Lúc này,
Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con
là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng
hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm
lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà
học giả uyên thâm, một trí thức dân
tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông
hy vọng: với nhân vật này, triều đại
mới có thể đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê
và các tập đoàn phong kiến trước đó
gây ra.
Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là
một học giả, học rộng biết
nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng
trầm "thương hải biến vi tang điền"
(biển xanh biến thành nương dâu) của
trời đất, tạo vật và cuộc đời
trôi nổi như "phù vân". Ông thương
xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm
thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen",
"con đỏ". Ông thật sự mong
muốn đất nước thịnh vượng,
thái bình. Tương truyền, hình như để
tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương
tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời
cuộc, "vận mệnh" của đất
nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có
những lực lượng đảm
đương được việc thống
nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến
hỏi kế sách, ông đều bày cho họ
những phương sách khác nhau để giữ
thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng
thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm
sát hại, lo cho "số phận" nên đã
ngầm cho người hỏi kế an thân,
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất
đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói:
Dựa vào một dải Hoành sơn có thể
lập nghiệp được lâu dài). Thế là
Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là
Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất
Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).
Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng
ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế
bỏ, liền cho người hỏi ý kiến
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và
lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa
và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ
Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên
chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành
tất giữ được. Nếu tự ý
phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn
đối với nhà Mạc, sau những cuộc
chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao
Bằng thế thủ, vua Mạc cho người
về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông
đã trả lời: "Cao Bằng tuy thiển,
khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất
hẹp, nhưng có thể giữ được vài
đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688,
sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà
Mạc mới bị diệt. Các truyền
thuyết trên đây muốn chứng tỏ
rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài
tiên đoán, đo nắm được bí
truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả
lại còn truyền thuyết nữa về
Trạng Trình với tập Trình quốc công
sấm ký. Tương truyền trong tập sách
đó, ông đã tiên tri và biết trước các
sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc
xảy ra "năm trăm năm sau". Thực,
hư thế nào, còn là vấn đề cần
phải nghiên cứu khẳng định hay phủ
định của các nhà học giả Việt Nam
sau này để trả lại giá trị xứng
đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương
nhiên, một điều cần khẳng định:
Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học
giả "thượng thông thiên văn, hạ tri
địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời
hiểu thiên văn, dưới đất tường
địa lý, ở giữa hiểu con người).
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho
hậu thế những tác phẩm văn thơ có
giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm
hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại)
và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi
tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm
thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc
ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm).
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu
hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của
thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham
quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông
còn truyền đạt cho đời một đạo
lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi,
cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng
giềng. Đọc thơ ông là thấy cả
một tấm lòng lo cho nước, thương
đời, thương dân, và một tâm hồn
suốt đời da diết với đạo lý:
"Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên
hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái
lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên
hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn
mở trường dạy học, mong đào
tạo cho đời những tài năng "kinh
bang tế thế". Học trò của ông cũng
có người trở thành danh tướng,
Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương
Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...
Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn
Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của
Việt Nam. Tư tưởng triết học
của ông "không bận tâm đi vào xu hướng
duy lý... đi tìm khái niệm bản thể
luận như Lão Tử, như triết học
Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến
ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu
sắc triết học Tống Nho nhưng không
đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý
giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc
chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu,
biện giải nhiều thứ mơ hồ rối
rắm trong những khái niệm hỗn tạp
đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông
được triều đình nhà Mạc và sĩ
phu đương thời phong là Trình tuyền
hầu, tức là một vị Hầu tước
khơi nguồn dòng suối triết học của
họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà
triết học khai phá ra phái Lạc Dương
của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông
là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học
của ông là triết học đã được
sống dậy, biểu hiện trong thơ như
sự gợi ý mách bảo của cuộc sống
thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong
nhận thức triết học mà mình thu lượm
được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có
vẻ như thô sơ để giải đáp
nhiều hiện tượng tự nhiên và xã
hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài
mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên
những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như
muốn vươn lên khái quát "luật"
đời bằng những phạm trù triết
học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến
những cặp phạm trù đối lập như:
đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi,
sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan
niệm triết lý nhân sinh của mình.
Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận
thấy trong tư tưởng triết học
của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm
được phép biện chứng, nhưng
vẫn nặng về duy tâm. Quan niệm về
sự phát triển của ông còn nằm trong khung
tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy
ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là
cái phép biện chứng của Chu dịch... ông
đã nhận được trong nền giáo
dục Nho học đương thời, cộng
với phép biện chứng thô sơ của Lão
Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng
là những hạn chế đương nhiên
của rất nhiều nhà triết học cổ
đại" (Đào Thái Tôn).
Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và
con người thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh
Khiêm(1) xứng đáng là "cây đại
thụ", nhà học giả, nhà triết gia
của thế kỷ.
* Giai thoại về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Còn có biệt hiệu là Tuyết Giang Phu tử
|