|
Chu Văn An (1292 - 1370)
Trần văn thử hà thời, dục vịnh
đại phi hiền giả lạc Phượng sơn
tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng
triết nhân phong.
(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh
rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.
Non phượng c̣n dấu nơi ẩn, núi sông măi
măi ngắm nh́n phong cách triết nhân).
Đó là đôi câu đối mà người đời
măi măi c̣n truyền tụng để tỏ ḷng
mến phục đối với Chu Văn An - nhà
Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu
mực cuối thời Trần.
Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên
chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn,
xă Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện
Thanh Tŕ - Hà Nội). Theo thần tích đ́nh làng
Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, th́ ông
sinh năm Nhâm Th́n (1292) và mất năm Canh
Tuất (1370).
Chu Văn An ngay từ hồi c̣n trẻ đă
nổi tiếng là một người cương
trực, sửa ḿnh trong sạch, giữ tiết tháo,
không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc
sách. Khi thi đỗ Thái học sinh, ông không ra làm
quan, mà trở về mở trường dạy
học ở quê nhà. Học tṛ nhiều nơi t́m
đến theo học rất đông. Trong số môn
đệ ông có nhiều người thành đạt,
thi đỗ ra làm quan to trong triều như
Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm
thầy vẫn giữ lễ, được
thầy nói chuyện ít lời th́ rất lấy làm
mừng. Có những học tṛ cũ không tốt,
ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát
mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách
thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng
tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy
tín của ông như vậy, khiến cho học tṛ
đến theo học càng nhiều và có đủ
các loại.
Một huyền thoại vẫn được lưu
truyền nói về ngôi trường và nhân cách,
đạo đức của ông như sau: "Tương
truyền khi Chu Văn An mở trường dạy
học ở quê nhà, có nhiều học tṛ t́m
đến theo học. Trong số này có một người
sáng nào cũng đến thật sớm nghe
giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng
không rơ tông tích ở đâu. ông bèn cho người
ḍ xem th́ cứ đến khu đầm Đại
(khu đầm lớn h́nh vành khuyên, nằm
giữa các làng Đại Từ , Tứ Kỳ,
Huỳnh Cung) th́ biến mất. Ông biết là
thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo
dài, giảng bài xong ông tụ tập các tṛ
lại hỏi xem ai có tài th́ làm mưa giúp dân, giúp
thầy. Người học tṛ kỳ lạ trước
có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin
nhận và nói với thầy: "Con vâng lời
thầy là trái lệnh Thiên đ́nh, nhưng con
cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có
chuyện ǵ không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau
đó người này ra giữa sân lấy nghiên mài
mực, ngửa mặt lên trời khấn và
lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi.
Vẩy gần hết mực, lại tung cả nghiên
lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo
đến, trời đổ mưa một trận
rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và
đến sáng thấy có thây thuồng luồng
nổi lên ở đầm. Chu Văn An được
tin khóc thương luyến tiếc rồi sai
học tṛ làm lễ an táng, nhân dân các làng lân
cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công
ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn c̣n
dấu vết mộ thần. Theo truyền
thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi
xuống đă biến thành đầm nước
lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm
Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh
Oai biến làng này thành một làng văn học quê
hương của Ngô Th́ Sĩ, Ngô Th́ Nhậm,
v.v... Trong đền thờ thần c̣n đôi câu
đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.
Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút
lực hồi thiên tự thuận.
Chu đ́nh lưu hóa vũ, thiên trù vọng
thiếp địa phồn khô.
( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn
bút ra công trời thuận theo lẽ phải.
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, ngh́n
cánh đồng đội nước, đất
nẻ trổ mùa hoa).
(Chu đ́nh có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu,
chỉ Chu Văn An).
Câu chuyện trên đây chỉ là một giai
thoại về Chu Văn An để nói rằng tài
đức của họ Chu có sức mạnh
cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy
nhiên, qua đó cũng thấy được đức
độ của Chu Văn An lúc đương
thời là rất lớn.
Đến đời vua Trần Minh Tông, ông
được mời vào làm Tư nghiệp ở
Quốc Tử Giám để dạy Thái tử
học. Ông đă cùng với Mạc Đĩnh Chi,
Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia
vào công việc củng cố triều đ́nh lúc
đó đang đi dần vào con đường
khủng hoảng, suy thoái. Đến đời
Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian
thần nổi lên khắp nơi. Chu Văn An
nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được,
bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh
thần, đều là người quyền thế
được vua yêu. Đó là Thất trảm
sớ nổi tiếng trong lịch sử. Nhà vua không
nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ"
rồi bỏ quan về ở ẩn tại núi Phương
Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí
Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều
ẩn (người đi ẩn hái củi). Sau ông
mất tại đó.
Theo thư tịch cũ th́ Chu Văn An viết
nhiều sách, ông đă để lại cho đời
sau những tác phẩm: hai tập thơ Quốc
ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều
ẩn thi tập bằng chữ Hán. Ông c̣n viết
một cuốn sách biện luận giản ước
về Tứ thư nhan đề Tứ thư
thuyết ước. Theo một tài liệu nghiên
cứu gần đây th́ Chu Văn An c̣n là một
nhà đông y đă biên soạn quyển Y học
yếu giải tập chu di biên gồm những lư
luận cơ bản về chữa trị bệnh
bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đă dành
cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối
với một trí thức là được thờ
ở Văn Miếu. Vua c̣n ban tặng tên thụy
cho ông là Văn Trinh. Ngô Thế Vinh, nhà văn
học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn
bia ở đền Phương Sơn đă thích
nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn,
đức chi biểu dă; Trinh, đức chỉ chính
cổ dă. Văn là sự bên ngoài (thuần
nhất )của đức; Trinh là tính chính
trực, kiên địch của đức). Tên
thụy như vậy nhằm biểu dương
một người đă kết hợp được
hai mặt của đạo đức: bên ngoài
thuần nhă, hiền ḥa với bên trong chính
trực, kiên định. Trong lịch sử giáo
dục nước nhà, ông cũng đă giành
được địa vị cao quí bậc
nhất, xứng đáng đứng đầu các
nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đă vượt
qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi
của một đời để đạt
tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời
như Phan Huy Chú đă ngợi ca ông: "học
nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng,
làng Nho nước Việt trước sau chỉ có
ḿnh ông, các ông khác không thể so sánh được".
|