Lời
nói đầu.
Chuyện về
lịch sử đâu đến lượt anh chàng làm về tự nhiên như chúng tôi thực
hiện. Nhưng những chuyện tình cờ đã đưa chúng tôi vào cuộc. Giữa năm 2004,
chúng tôi-những nhà khoa học trẻ có dự định làm một cuốn sách về Vật Lý. Tôi
được phân công viết về các triết thuyết về vũ trụ. Các triết thuyết khác nói
chung khá đơn giản vì chúng tôi đã làm quen qua. Nhưng Kinh Dịch lại hoàn toàn
mù tịt. Thời công nghệ thông tin, đành gõ “Kinh Dịch” vào trang search của
Google để tìm tài liệu. Cuộc tìm kiếm này đã dần đưa chúng tôi đến một diễn đàn
tranh luận giữa một người có nickname là Thiên Sứ (Nguyễn Vũ Tuấn Anh)
[1] và các người khác về đổi vị trí Tốn
Khôn
[2] của Hậu Thiên Bát Quái
[3] trong website
www.tuvilyso.com . Và chính cuộc bút chiến này làm cho chúng tôi đặt ra câu
hỏi: “Liệu Hà Đồ
[4] có hợp với Tiên Thiên
Bát Quái?
[5]”. Câu trả lời là chúng hoàn
toàn không hợp với nhau. Vậy phải chăng Hà Đồ sai, hay Tiên Thiên sai?.
Hay Hà Đồ được vẽ ra không dùng để ký hiệu Tiên Thiên?!
Rồi càng
nghiên cứu, càng lý thú. Đầu tiên, tôi thử đặt một giả thiết: “Ông
Thiên Sứ đúng”. Và lý luận tiếp: “Nếu Thiên Sứ đúng thì truy nguyên
lại, người Trung Quốc hoàn toàn không nắm bắt được những tư tưởng Hà
Đồ, Lạc Thư.
[6]”. Hà đồ thì khó, chứ
Lạc Thư chả có gì đáng nói về toán học. Nó cũng chỉ là magic matrix
đơn giản nhất thôi. Và trí tuệ người cổ đại hoàn toàn đạt được. Với
bất cứ dân tộc nào!
Mốc đột phá
đầu tiên nhất là khi chúng tôi thử nghiên cứu đối xứng của cái gọi
là “Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương”. Nó thật thảm hại, luộm thuộm và
phi logic đến mức buồn cười. Rồi dần dần ý tưởng về trống đồng của
anh Nguyễn Thiếu Dũng
[7] đã thôi thúc
tôi. Ừ nhỉ? Tại sao không? Thế ông cha ta để lại thông điệp gì trên
trống đồng. Thử dùng một thứ logic tự nhiên, đơn giản nhất để hiểu
các cụ xem sao. Khoan nghĩ đến góc độ mỹ thuật để mà trầm trồ: “Ôi
đẹp quá! Văn hiến Lạc Việt rực rỡ đấy chứ.”. Liệu có chăng một thứ
triết lý nào đó trên trống đồng? Thay vì trầm trồ, thán phục vẻ đẹp
của chúng (trống đồng), ta hãy lắng mình tìm những chi tiết nhỏ
nhạnh nhất để thử tìm lại cái gì mà ông cha ta gởi gắm vào đó. Mặc
dù, cái đẹp cũng là cái rất to tát rồi.
Nào ngồi
xuống đây, tôi kể anh nghe. Việt Nam ta có bí quyết trống đồng. Qua bao
nhiêu trầm luân, Hán thuộc, Tây thuộc đủ cả; nhất là thời kỳ Bắc
thuộc tổ tiên ta chịu mất đi ngữ văn của mình, chịu mất đi một phần
ngôn ngữ cổ truyền của mình, chịu mất đi bao tài năng xuất chúng cho
kẻ xâm lược. Thế mà bí quyết trống đồng, phương bắc không thể nào
chiếm đoạt được. Cái gì thiêng liêng đến mức vậy?. Cái gì mà tổ tiên
tôi với anh dù có bị tù đày, tra tấn, nhục hình vẫn không khai? Nó
phải là cái gì cao quý chứ. Ít ra đối với dân tộc chúng ta.
Chúng tôi bắt
đầu tìm lại “nền văn hiến mồ côi...” như ông Kim Định
[8] đã viết. Càng thôi thúc chúng tôi hơn
khi đọc được
bài phỏng vấn của bà Patricia Pelley trên BBC:
BBC:Về
vấn đề bản sắc dân tộc, chẳng phải đó đã luôn là quan tâm của mọi
thế hệ sử gia hay sao?
Đúng
vậy, nhưng trong các xã hội hậu thuộc địa, không chỉ riêng ở Việt Nam,
vấn đề bản sắc mang một tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là khi các
sách thời thuộc địa của Pháp tỏ ra tiêu cực về Việt Nam. Chẳng hạn,
khi các nhà khảo cổ Pháp khai quật vùng Đông Sơn và thấy sự rực rỡ
của trống đồng, họ liền cho rằng đây không thể nào là thành quả của
người Việt.
Người Pháp rõ
ràng nghĩ họ đã chiếm được nước ta thì nước ta làm gì có nền văn
hiến đáng kể!!! Hẳn nhiên, người Pháp với chủ quan của họ có quyền
phán xét như vậy. Nhưng chúng ta có quyền nghĩ vậy không là điều đáng
nói. Liệu chúng ta có thể nói văn hiến chúng ta không đáng kể trong
khi dù bị đô hộ 1000 năm, dân tộc ta vẫn trường tồn không?...
Khá khen cho
các học giả người Pháp chăm chú và một cách thành kính nghiên cứu văn hiến Maya,
văn hiến Aztec. Nền văn hiến của một dân tộc đã biến mất trên thế gian này; đâu
còn gì để so đo, ganh tỵ mà mình không khen cơ chứ. Còn văn hiến của một dân tộc
mất nước, một dân tộc bị mình đô hộ thì có chi đáng kể. Nếu có gì đó rực rỡ hay
vĩ đại quá ngược với thành kiến của ta, ta cứ phán là không phải thành quả của
họ.
Người dân tộc
khác cũng hoàn toàn logic khi nói: “Dân tộc Việt của các anh xướng ca
vô loài, đàn bà đàn ông nhảy nhót với nhau, không ra thể thống gì.
Làm gì có thể đặt vấn đề triết thuyết ra đây? Các anh làm ra trống
đồng thật đấy. Nhưng há có một dân tộc nào không có một nghệ nhân
khéo léo nào đó?! Người nghệ nhân của các anh chỉ vẽ thô sơ lại một
vũ hội nào đấy mà thôi.”. Có thể như thế vậy chăng? Chuyện cơ ngẫu
thì trong triết học từ Á sang Âu đều có viết. Nhưng người nghệ nhân
làm ra một sản phẩm trí tuệ liệu có ngẫu nhiên phát họa những hình
ảnh đập vào mắt mình không?...
Và tôi đã tìm ra những ngẫu nhiên đáng ngờ...
Chú thích:
[1] : Nguyễn
Vũ Tuấn Anh - nhà nghiên cứu văn hoá, chuyên về nền văn hiến Lạc Việt. Ông còn
là nhà Dịch học. Một trong những người kiên quyết khẳng định, Kinh Dịch là do
người Việt cổ làm nên. Vào đây để đọc sách của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh:
www.tuvilyso.com
[2] : Hai
quái trong Bát quái. Có tám quái cả thảy vì chúng được xây dựng nên từ hai vạch
Âm Dương và có ba lớp như thế, nên số quái sẽ bằng 23 = 8. Với Càn-3
lớp Dương cả, Khôn-3 lớp Âm cả, Đoài-2 Dương dưới và 1 Âm trên, Cấn-2 Âm dưới và
1 Dương trên, Chấn-1 Dương dưới hai Âm trên, Tốn-1 Âm dưới hai Dương trên, Ly-2
Dương trên dưới và vạch Âm giữa, Khảm-2 Âm trên dưới và vạch Dương giữa.
[3] : Hậu
Thiên Bát Quái tương truyền do ông Chu Văn Vương dựng nên khi bị Trụ Vương giam
cầm ở Dữu Lý. Các quái trong Hậu Thiên Văn Vương được phân bố như sau: Khảm-Bắc,
Càn-Tây Bắc, Đoài- Tây, Khôn-Tây Nam, Ly-Nam, Tốn-Đông Nam, Chấn-Đông, Cấn-Đông
Bắc.
[4] : Hà Đồ:
tương truyền do vua Phục Hy nhìn thấy nó mà vẽ nên hai vạch Âm Dương. Đồng thời
dựng nên Tiên Thiên Bát Quái. Hà đồ là một đồ số có các cặp số (được vẽ số nhỏ
trong, số to ngoài) sau: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9. Với 1-6 đối với 2-7, 3-8 đối với
4-9.
[5]: Tiên
Thiên Bát Quái. Các quái trong Tiên Thiên phân bố như sau: Khôn-Bắc, Cấn-Tây Bắc,
Khảm- Tây, Tốn-Tây Nam, Càn-Nam, Đoài-Đông Nam, Ly-Đông, Chấn-Đông Bắc. Thật ra
phương vị không quan trọng. Chúng tôi chép như thế để bạn đọc biết vị trí tương
xứng của các quái mà thôi.
[6] : Lạc Thư.
Ma phương 3x3, tổng các số hàng ngang hàng dọc và chéo đều bằng 15. Các số từ
1-9 được xếp như sau (ở đây để tiện theo dõi vấn đề liên quan đến Dịch học,
chúng tôi cũng phân các ô của Lạc Thư theo tám hướng: 5 ở giữa, 1-Bắc, 6-Tây Bắc,
7- Tây, 2-Tây Nam, 9-Nam, 4-Đông Nam, 3-Đông, 8-Đông Bắc.
[7] : Nguyễn
Thiếu Dũng. Người viết một loạt bài chứng minh Kinh Dịch là di sản của người
Việt. Link tham khảo:
http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/4/4/80330.tno và
http://web.thanhnien.com.vn/Khoahoc/2005/10/26/126878.tno
[8] : Kim
Định. Linh mục triết gia người Việt. Người viết nhiều về triết lý Việt cổ. Người
viết cuốn
“Gốc rễ triết Việt”.