|
Vua quan "Thiên triều" vốn
quen thói kiêu ngạo.
Năm ấy, được tin sứ nhà Thanh khét
tiếng hống hách sắp sang nước ta, vua Lê chúa
Trịnh tỏ ý lo ngại. Tin vào tài ứng đối
của Quỳnh, triều thần giao cho Trạng
giữ việc tiếp sứ.
Trạng cho dựng một ngôi quán nhỏ bên bờ sông
cái, xin vua triệu bà Điểm ra đó ngồi bán
hàng. Còn mình tự quản một chiếc đò,
nhận đón chở sứ bộ qua sông.
Mấy tên trong sứ bộ Tàu vừa đến nước
ta, qua ngôi quán bà Điểm, nhác trông thấy cô hàng
nước xinh tươi óng ả, liền thả
lời bỡn cợt.
Một tên líu lo đọc bâng quơ:
"Nam bang nhất thốn
thố bất tri kỷ, nhân canh!"
(nghĩa là: Một tấc đất nước Nam không
biết bao nhiêu người cày). Ý nói mỉa bà hàng
nước lẳng lơ.
Bà Điểm đang nhai trầu, nhổ toẹt
một bãi nước cốt xuống đất, nói
trống không:
"Bắc triều chủ
đại phu giai đo thử đồ xuất"
(nghĩa là: Bọn quan to, ông lớn ở nước
phương Bắc đều từ chỗ ấy mà
chui ra cả).
Câu đối lọt vào tai bọn sứ bộ, chúng
giật mình, câm họng. Dè đâu chị hàng bán nước
mà tài học siêu việt đến thế.
Đến lúc xuống đò, Quỳnh đã mặc
giả làm chú lái, cầm sào đợi sẵn ...
Đò ra giữa sông, một tên trong đoàn sứ
bộ Tàu hổng ruột, lỡ xổng ra một
tiếng "bùm".
Hắn đã không biết sượng mặt, còn
đọc một câu chữa thẹn lếu láo :
"Lôi động Nam bang"
(Sấm động nước Nam).
Trạng Quỳnh đang cầm chèo. Liền đứng
vạch quần đái vòng cầu câu xuống nước
mà nói:
"Vũ quá Bắc hải"
(mưa qua bể Bắc).
Từ đó, cả bọn Ngô ngông bấm nhau
ngồi im thin thít. Khiếp vía là phải.
Mới gặp chị hàng nước, anh lái đò,
"Thiên triều" đã lúng túng đến không
biết đối phó thế nào.
____________
Sứ bộ Tàu liên tiếp bị
thua mưu trí Trạng Quỳnh, triều thần và dân
khắp nơi đều mở lòng, mát mật. Riêng
chúa Trịnh hèn đốn, sợ tổn sức đến
Thiên triều, gọi Quỳnh vào nội phủ
quở mắng:
- Nhà ngươi tài giỏi vặt vảnh chẳng
qua chỉ đuổi được một con trâu ra
khỏi vạch vôi, đập vỡ một cái
lọ thủy tinh. Liệu đến lúc thiên binh phương
Bắc kéo sang, ngươi có đứng ra chống
đỡ nổi hay không?
- Khải chúa, người nói
điều chi lạ? Một mình tôi không trị
nổi thiên binh vạn mã, song cả nước này
từ trên xuống dưới một lòng thì sợ gì
không đè bẹp được giặc. Nhà chúa hãy
trông lại các đời Đinh, Lê, Lý, Trần ...
vua tôi nước Việt đã ai chịu quỳ
gối khuất phục chúng bao giờ chưa?
Chúa Trịnh tím mặt, cắn răng không nói
được câu nào nữa. Ít lâu sau, nhân viện
cớ đòi Trạng vào chầu, Trạng không
chấp lệnh, chúa sai một toán kiêu binh đến
kéo đổ nhà Trạng. Bọn này mang thừng , chão
đến buộc vào cột, kèo, nóc, mái. Sắp ra
tay thì Quỳnh dọa:
- Chúa sai bọn bay kéo đổ nhà. Được
rồi. cứ kéo đi, nhưng cấm há miệng hò
dô. Đứa nào không làm đúng như vậy, ta cho
gia nhân vặn răng, rút lưỡi!
Không đồng thanh hiệp sức "dô ta" làm
sao đủ lực giật đổ nhà. Lính của
chúa đành quấn thừng, chão, lủi thủi ra
về.
Chưa trả thù được Trạng, chúa chưa
hả giận. Lần khác, chúa lại truyền lính
nội phủ: "Cứ đến đại
tiện ra nhà Trạng, cho thối hoắc lên,
Trạng ắt phải bỏ đi nơi khác".
Bọn lính kéo đến sắp giở trò, lại
bị Quỳnh nạt:
- Được rồi, chúa sai bọn bay đến
ta, cứ việc. Nhưng chúa không sai đái thì
cấm đái. Đứa nào đái ra đất nhà
tao, tao sẽ cho gia nhân cắt dái đó!
Làm sao người ta có thể "đại
tiện" mà giữ cho khỏi "tiểu
tiện". Thế là đám lâu là nhà chúa đành
co vòi, cắp đít ra về. Nhưng cũng có
một vài tên ranh mãnh đã đeo gáo dừa vào
hạ bộ, ngồi rốn "bậy" ra nhà
Trạng được ít bãi.
Trạng căm lắm, nghĩ bụng: "Nhà chúa
đã đối xử cạn tình với ta, cho ta
ngửi ... thì rồi sẽ có ngày ta đãi chúa ăn
..."
Đợi một ngày giữa vụ rau, Trạng ra
chợ chọn mua một cây cải thật lớn.
Trạng khệ nệ vác cây cải vào dâng chúa. Tưởng
Trạng đã xí xóa chuyện cũ, muốn đến
cầu thân, chúa nhận của biếu. Gặp hôm
Trạng vào chầu, thuận miệng chúa hỏi:
- Bữa nọ Trạng kiếm đâu được
giống cải quý mà ta ăn ngon miệng đến
thế?
Bất đồ, Trạng vỗ mặt, tâu luôn:
- Thế nhà chúa quên rồi ư? Nhờ hơi
của lính nội phủ mà nhà Trạng mọc
được cây cải tốt như vậy để
đem hiến chúa. Nay chúa ăn thấy ngon, tôi
mới thực vui lòng!
Chúa trót ăn rồi, lại khen ngon, biết làm sao.
Thật là: "Dễ ăn, khó nói!".
_____________
Sứ Tàu vốn là một tay
vẽ rất giỏi. Một hôm, hắn khoe tài
với Quỳnh, ra giọng thách thức:
- Ta chỉ nghe ba tiếng trống đánh là vẽ
xong một con vật. Người có thể làm như
thế không?
Quỳnh cười đáp:
- Thưa, chỉ nghe một tiếng trống mà vẽ
xong đến mười con vật như tôi mới
tài, chứ phải ba tiếng trống mới vẽ
được một con thì sao gọi là tài cho
được!
Sứ Tàu nghe nói tức lắm, nghĩ bụng
phải cho cái thằng này biết tài mới
được, thách Quỳnh thi vẽ với hắn.
Quỳnh nhận lời ngaỵ
Đến lúc thi, nghe tiếng trống đầu tiên,
sứ Tàu liền cắm cúi vẽ lấy vẽ để.
Quỳnh thì cứ ung dung ngồi dưới chiếu
nhai trầu, xem như người đang ngồi hóng
gió chứ không phải thi thố gì cả. Tiếng
trống thứ hai nổi lên, sứ Tàu liếc
thấy Quỳnh vẫn cứ ngồi đó ngâm
ngạ Nghe tiếng trống thứ ba, Quỳnh mới
đứng lên, tiến tới bàn, nhúng cả mười
đầu ngón tay vào nghiên mực rồi trét lên
giấy thành mười vệt dài ngoằn nghoèọ
Khi đó, sứ Tàu chưa vẽ xong được hình
thù con vật nào cả.
Thời gian so tài đã hết, Quỳnh đưa
tờ giấy ra, bảo với sứ Tàu:
- Ông thua cuộc rồi đấy nhé ! Tôi đâu có
nói ngoa, chỉ nghe một tiếng trống thôi là tôi
vẽ xong ngay mười con giun đất đây nàỵ
Sứ Tàu muốn ôm đầu kêu trời, đành
thua mẹo của Quỳnh một lần nữa .
_____________
Một đêm kia, quan coi thiên văn trong triều
tâu với nhà vua :
- Thưa Hoàng Thượng, thần quan sát đã
bảy ngày nay, hễ vào giờ này là góc trời phương
Nam loé lên một ánh sao thật kỳ lạ. Theo
thần biết thì đó là vùng đất xứ
Thanh. Điều đó chứng tỏ có nhân tài chưa
xuất đầu lộ diện, cúi xin Hoàng Thượng
cho xuống chiếu chiêu hiền, may ra có người
có người tài ra giúp nước nhà.
Vua chấp thuận và ban lệnh cho dân chúng vùng Thanh
Hóa - mỗi làng phải nộp cho nhà vua một con trâu
đực có chửa, hẹn trong vòng một tháng thì
phải nộp đủ, nếu không bị
tộị
Nghe tin ấy, dân chúng già trẻ cùng các hương
dịch, chức sắc các làng lo mất ăn mất
ngủ. Phen này ai cũng chắc mẩm là chết, vì
có bao giờ trâu đực lại có chửa! Họa
chăng là xuống gặp Diêm Vương mà mượn!
Chiều ấy, cha Quỳnh là hương xã trong làng,
đi họp về nét mặt nặng trĩu buồn
rầụ Quỳnh thấy thế bèn hỏi thì
được ông kể lại cho nghe đầu
đuôi sự việc oái oăm kiạ Nghe xong,
Quỳnh cười, thưa với cha:
- Xin cha cho con một ít tiền làm lộ phí đi
đường. Con lên kinh lo việc này thì nhất
định vua sẽ không làm tội làng ta nữa
đâụ
Cha Quỳnh miễn cưỡng bằng lòng. Sáng hôm
sau, Quỳnh khăn gói lên đường. Đến
kinh thành, cậu bé nghỉ ngơi ở một quán
trọ để đợi cơ hộỉ
Ngay khi nghe biết tin nhà vua cùng các quan hầu đi
dạo cảnh phố phường, Quỳnh nấp dưới
một bụi trúc bên đường, ra sức la khóc,
gào thét cốt cho nhà vua nghe được. Nghe
tiếng con nít khóc vang rân, vua sai lính dẫn đến
cho ngài hỏi:
- Bé con kia có việc gì buồn bực sợ hãi mà la
om sòm thế?
- Thưa Đức Vua, con khổ và buồn quá nên
bỏ nhà đi, lại định tự vẫn
chết cho xong?
- Hãy nói cho ta nghe xem là việc gì nào? Quỳnh giả
vờ khóc tức tưởi rồi thưa:
- Con vốn mất mẹ từ lâu, sống thui
thủi với bố, muốn có em bé để
bồng ẵm cho vui nhưng bảo thế nào bố
con vẫn không chịu đẻ cho con một đứa.
Vua nghe xong không chịu nổi cười, vuốt râu
bảo:
- Cái thằng ôn con này hay thật! Bố mày là đàn
ông thì đẻ cái nỗi gì chứ! Đúng là
dở hơi!
Bấy giờ, Quỳnh tiến sát lại bên kiệu
vua mà nói :
- Con không dở hơi đâu ạ, vì chính con nghe
bố nói triều đình cũng có chiếu chỉ
xuống bắt dân phải nộp mỗi làng một
con trâu đực có chửa cơ mà!
Vua nghe xong té ngửa, trong bụng biết ngay đây là
người tài, rất ứng với lời tiên
đoán của quan thiên văn dạo nàọ Lập
tức, vua ra lệnh bãi bỏ chiếu chỉ
"dở hơi" kia ngaỵ
Mọi người biết tiếng Quỳnh từ
đó .
____________________
Quỳnh biết bọn quan thị và
quan võ trước giờ không ưa nhau, bèn nghĩ cách
cho chúng tỉ võ với nhau một bữa, đồng
thời để xem cái dốt nát của chúng đến
mức nào.
Một hôm, Quỳnh đến nhà viên quan hoạn
giữ chức giám ban, đọc cho nghe một câu
đối như sau:
"Thị vào chầu, thị đứng, thị trông,
thị muốn ấy, thị không có gậy."
Trạng giải thích cho hắn hiểu chữ
"thị" đây có nhiều nghĩa, gồm
cả hầu, trông thấy, gậy.. rồi nói kháy:
- Kẻ nào đặt câu đối này là có ý
dụng ngữ để ám chỉ các quan thị như
ngài. Điều đó minh bạch lắm, ai đọc
cũng có thể hiểu được.
Tên giám ban nghe thế thì máu nóng bốc lên tới
đầu, không kịp suy tính gì cả, hỏi ngay:
- Đồ chó má! Trạng có biết thằng nào dám
chơi trò hỗn xược như thế không?
Quỳnh bảo:
- Chính xác thì tôi không biết, nhưng tôi đọc
được câu đối ấy bên dinh quan để
đốc. Mày này, tôi nói cho ngài biết vậy thôi,
xin chớ có hé môi, ông ta biết thì khổ lây đến
tôi đấy nhé!
Quỳnh nói xong thì kiếu ra về rồi đi ngay
đến nhà quan đề đốc. Gặp quan,
Quỳnh khoe rằng vừa đọc được
một câu đối hay ở dinh quan giám ban.
Quan đề đốc bảo Quỳnh đọc cho
ông ta nghẹ Quỳnh nhăn mặt, lắc đầu
nguây nguẩy:
- Câu đối hay nhưng độc địa
lắm, chỉ có những tay cự phách mới có
thể ra từ thâm như vậy. Hơn nữa, hình
như có kẻ muốn ám chỉ ngài hay sao ấy,
chẳng hiểu sao họ lại thù ngài đến
thế nhỉ. Quan võ dù sao cũng đắc lực hơn
chứ, không có võ thì văn sống sao nổi,
thế mà lại tìm cách chơi khăm ngài..!
Quan võ mặt đỏ bừng lên như gà cắt
tiết, nghiến răng trèo trẹo, bảo
Quỳnh:
- Ông cứ đọc cho tôi nghe. Tôi xem là thằng nào...
mà cho nó một trận nên thân mới được!
Quỳnh giả vờ gãi đầu gãi tai nhớ
lại rồi đọc:
-Vũ ỷ mạnh, vũ ra vũ má, vũ bị mưa,
vũ bện xoắn lông!
Đã thế, đọc xong, Quỳnh lại còn ra
vẻ xuýt xoa thán phục:
- Chữ vũ tai ác thật. Một từ mà đồng
âm, diễn được bốn, năm nghĩa:
mạnh, múa, mưa, lông... Thế thì có thánh hoá
mới đối lại được!
Từ hôm đó trở đi, quan đề đốc
và quan giám ban kình nhau ra mặt. Cho đến một hôm,
Quỳnh nghe đám gia nhân kháo nhau: hai nhà quan kia kéo
"quân" hỗn chiến một trận kịch
liệt. Xong trận, cả hai đều tơi
tả.
Riêng Quỳnh thì biết rõ: cái đám quan văn võ
ăn trên ngồi trốc ấy đúng là một
bọn vô lại dốt nát. Hai phe đánh nhau vỡ
đầu, sứt trán nhưng đâu biết rằng
chúng đã bị chính Quỳnh đánh vậy!
__________
Hằng năm, cứ đến
dịp rằm trung thu là trong triều lại mở
cuộc thi gọi là "Thi ngũ quả." Đây
là dịp cho bọn quyền quí giầu có ở kinh
thành Thăng Long tha hồ mà tung tiền ra hầu
đoạt lấy giải cao nhất của nhà
vuạ Thế nhưng, lần thi này thì thật khó.
Chẳng hiểu sao dạo gần đây Chúa Trịnh
lại mắc cái chứng sợ nắng, sợ gió.
Chúa ngồi ngự lãm sau mức màn rủ, bởi
thế việc chấm thi hầu như giao lại cho
bà Chúa tùy quyền quyết định, thế nên
việc cho điểm lại càng rắc rối và khó
khăn hơn các kỳ thi trước! Trong kỳ thi
này, Quỳnh tuy chả có lắm tiền như thiên
hạ, nhưng cũng xin tham dự. Lại còn nói trước
với bạn bè rằng mình sẽ đoạt
giải cao nhất.
Vào cuộc thi, mọi người đua nhau bày ra các
thú trái cây ngon lạ. Trong lúc đó, mọi người
thấy Quỳnh vẫn chỉ hai tay không, cổ áo
giắt một tờ giấy cuộn tròn. Tuy kinh
ngạc trước cảnh tượng ấy nhưng
chẳng ai thừa giờ mà chú ý đến
Quỳnh, ai cũng mải chăm chút cho mâm quả
dự thi của mình trước đã.
Lúc đến lượt mình, Quỳnh rút cuộn
giấy ấy ra, trải phẳng trước mặt
Chúa và bà chính cung. Thì ra đó là một tấm tranh
vẽ hình một thiếu nữ rất trẻ, dáng yêu
kiều, khoả thân, nằm nghiêng mình, chân hơi co,
chân duỗi thẳng, đôi bàn tay úp lại đặt
dưới ngực. Dưới bức tranh có đề
hàng tựa: Mâm ngũ quả rằm.
Đợi một lát cho mọi người ngắm
bức tranh xong, Quỳnh thưa với Chúa:
- Kính xin Chúa thưởng ngoạn và cho điểm
"Mâm ngũ quả," của thần ạ!
Chúa nghiêm mặt:
- Ngươi nghĩ sao mà dám đó là mâm ngũ
quả? Quỳnh lặng lẽ lùi xa mấy bước,
dùng cây quạt tay thước, điểm lướt
qua bức tranh. Trước hết, chỉ vào đầu
thiếu nữ trong hình rồi nói: Đây là dẽ nhãn.
Chỉ vào ngực, Quỳnh tâu: Đây là một
cặp đào tợ Đến những ngón tay
nuột nà kia, Quỳnh bảo đó là trái phật
thủ. Chỗ cuối cùng, Quỳnh lấy cán
quạt khoanh một vòng, nói : Đây là múi mít
mới bóc, hãy còn thơm phức!
Không hiểu Chúa nghĩ thế nào mà thích chí cười
nắc nẻ. Bà chính cung thấy Chúa đang mắc
bệnh, lại còn thích những thứ không nên ăn
ấy, liền chất vấn Quỳnh
- Ngỡ trạng cho xem thứ gì mới mẻ,
chứ thứ ngũ quả ấy thì nữ nhân nào mà
chẳng có ?
Quỳnh biện bác ngay:
- Tâu lệnh bà, tục ngữ có câu "Người
năm bảy đấng, của năm bảy loài,"
đâu phải người nào cũng giống người
nàọ Có bậc anh linh kiệt xuất như Bà Trưng,
Bà Triệu, có bậc tài trí như Ngọc Hoa, Phương
Hoa, những kẻ thất đức, thất phu trên
trần này có đem gánh đổ đi cũng không
hết. Thần trộm nghĩ cây quả cũng
vậy thôị Có thứ bưởi đào, bưởi
ngột, nhãn lồng, đào tiên, mít thơm, mít
mật ... lại có thứ bưởi đắng, nhãn
còi, mít nhão, mít daị.. Xin lệnh bà xem lại cho
kỹ mâm "ngũ quả," của thần dâng
đúng là những thứ quí đấy ạ!
Quỳnh nói thao thao bất tuyệt một hơị
Bà chính cung nghe câu được câu chăng, sợ mình
bị lẫn vào loại nữ nhân tầm thường,
bèn hỏi lại cho rõ:
- Thế trạng xếp ta vào đấng người
nàỏ
Quỳnh nhìn chằm chằm bà Chúa từ đầu
đến gót rồi làm bộ cung kính, thưa:
- Tâu lệnh bà, nhan sắc như lệnh bà đáng
được xếp vào loại "khuynh thành, khuynh
quốc,"!
Bà chính cung chẳng hiểu thâm ý của Quỳnh khi
dùng những điển tích sâu xa, nghĩ rằng
Quỳnh khen mình là người đẹp không ai sánh
bằng, trong bụng sung sướng vô cùng, lại có
ý hàm ơn trạng nữa!
Nhà vua từ nãy đến giờ cứ mải
ngắm bức tranh, không để ý đến
cuộc đối đáp giữa chính cung và
Quỳnh, bỗng thở dài, chép miệng:
- Giá mà mâm "Ngũ quả," này là thật thì
ta chấm ngay cho ngươi giải nhất!
Quỳnh biết Chúa đã xiêu lòng, bèn thưa:
- Thứ "ngũ quả," ấy thì thiếu gì,
mà giá như có thật thì vào tay bậc cao sang như
Chúa thượng cũng chỉ một lần thưởng
thức qua là chán ngay thôị Còn mâm "Ngũ
quả," của thần đây mới thật là vô
giá, không có thức nào sánh được. Cứ
đem bày nó ra lúc nào cũng được, Chúa thượng
có "ăn" cả năm cả đời cũng
không hết, để đó chẳng sợ thiu
thối gì, mà muốn "ăn" cũng không ai
bị mất phần aị Bẩm, chính vì nó quí như
vậy nên thần mới đem tiến dâng, còn
việc dự thi chỉ là nhiên hậụ
Quỳnh tâu xong, Chúa không phán gì ngay, quay sang vấn ý
bà chính cung, bà Chúa mỉm cườị Sau đó
thay mặt Chúa tuyên bố Quỳnh đoạt
giải nhất cuộc thi ngũ quả năm nay
_______________________
Trên đường về kinh đô,
có một hàng bán nước cho khách , lại là quán
trọ cho những kẻ lỡ độ đường.
Chiều hôm ấy, có một ông khách vào quán. Khách
ăn mặc xoàng xĩnh, chiếc áo the dài đã
sờn cũ, quần cháo lòng khâu vài chỗ, trông khách
ra vẻ một nho sinh. Tuy nhiên, nếu ai nhìn kỹ
khuôn mặt, sẽ thấy ánh lên vẻ uy nghi,
ngạo nghễ. Khách bước vào quán nhưng
chả ai chú ý đến cả, vì với cách ăn
mặc như thế thì rõ ràng là một kẻ nghèọ
Ngồi ở bàn bên cạnh khách là một viên quan
bản hạt, dáng bệ vệ, miệng nhai trầu
tóp tép, cạnh đó có lính hầu đứng
quạt cho ông tạ
Viên quan nhai xong miếng trầu, nhổ bã đánh
toẹt xuống đất. Bỗng anh hàn sĩ kia mon
men lại gần, nhặt miếng bã trầu kia lên nhìn
với vẻ quan sát rất kỹ. Quan thấy thế
khó chịu và kinh ngạc, bèn lớn giọng hỏi
một cách khinh bỉ:
- Thằng kia, mày là ai, ở đâu tớỉ
Nho sĩ đáp:
- Bẩm ông, tôi là học trò nghèo, đi kiếm
chỗ dậy học.
Quan cười mỉa:
- Chà! Học trò nghèo đến nỗi phải đi
nhặt bã trầu à?
Nho sĩ nọ xoa tay thưa:
- Bẩm quan, tôi thường nghe người ta nói
"Miệng nhà quan có gang có thép," bởi thế
muốn nhặt bã trầu của quan xem thử có
đúng không ạ?
Biết mình bị xỏ, quan quát:
- Hay lắm! Mày đã tự xưng là học trò,
vậy ta truyền cho mày phải đối lại câu
mày vừa nóị Đối được thì thôi,
bằng không tao, cho một trận dừ đòn!
Nho sĩ ra vẻ sợ hãi, thưa:
- Câu ấy thật khó quá, khó quá...
Quan đắc chí, thét:
- Thế thì lính đâu, đè nó xuống!
Anh nho sĩ kia vội vàng thưa:
- Thôi thì tôi xin mượn tạm một câu cách ngôn
dân gian để đối, có được không
ạ?
Quan bảo:
- Muốn mượn cách gì mặc mày, nhưng
phải đối cho chỉnh!
Anh kia đứng dậy, hắng giọng đọc:
- Đồ nhà khó vừa nhọ, vừa thâm!
Viên quan trố mắt kinh ngạc, đứng chết
lặng cả người, trong lòng không khỏi khâm
phục. Sau đó, đổ giận làm vui, bảo lính
mở bọc lấy trầu tươi mời anh
học trò kia ăn. Lại khẩn khoản mời nho
sĩ ngồi chung bàn mà dùng chè, đối ẩm. Qua
câu chuyện, quan mới sợ hết hồn khi
biết ra mình đang ngồi với quan Trạng
triều đình, người mà cả vua quan đều
kính nể, e dè, anh nho sĩ ngèo ấy là Cống
Quỳnh.
___________
Trong ngày thi nọ, Quỳnh là người
ra vẻ như đã làm xong bài thi sớm nhất, ung
dung cắp ống quyển bước rạ Bọn
quan trường cho đó là một tay thí sinh cự
phách, bèn gọi đến đòi xem văn bút.
Quỳnh thưa:
- Đúng là tôi đã làm xong đấy, nhưng nghĩ
bài thi quá dở, thối om không thể ngửi
nổi, xin các quan đừng xem làm gì!
Bọn quan cho là Quỳnh chỉ nói nhún để thoái
thác, bảo:
- Văn của ông có thối cũng còn hay hơn
kẻ khác nhiều, điều đó ai cũng rõ.
Cứ đưa đây cho ta xem!
- Tôi nói thật đấy mà. Đang làm bài, tôi
thấy thối quá chịu không nổi nên mới
bỏ ra ngoài tìm chỗ chôn sách đi cho rồi !
Nói xong, Quỳnh rảo bước đi liền. Quan
đốc thị lập tức sai một tên lính theo
dõi xem Quỳnh đi đâu và làm gì... Hồi sau, lính
trở về, thưa:
- Bẩm quan , đúng là người ấy mang văn
đi chôn thật ạ! Chính mắt con thấy ông ta
đào đất chôn cái ống quyển xuống,
lấp đất lại rồi bỏ đi!
Quan giục:
- Mày đến ngay chỗ ấy, đào đất lên
lấy cho ta cái ống quyển. Cấm không được
táy máy mở ra đấy nhé!
Anh lính vâng dạ đi liền, một lát sau mang cái
ống quyển về. Bọn chúng không ngờ
rằng Quỳnh đã đổ vào trong đó đầy
phân lỏng trộn với nước tiểu,
lại còn thả vào đó mấy chục con châu
chấu, xong, bịt kín lạị
Chiều hôm ấy, đợi toàn bộ quan trường
thi tề tựu đông đủ, quan đốc
thị xin phép quan đề điểu cho mở
ống quyển ra xem. Nắp ống vừa bung,
lập tức, hàng chục con châu chấu dính đầy
phân túa bay ra làm các quan tránh không kịp. Mẹ ơi!
Mình mẩy, tay chân, áo mão người nào người
nấy dính đầy phân hôi thối khủng
khiếp. Đúng là một cảnh tượng cười
ra nước mắt!
Ngày hôm sau, bọn quan kéo rốc nhau đến
kiện với Chúa, mặt tên nào cũng méo
xẹọ Chúa đích thân đứng ra xử
vụ kiện tai quái nàỵ Lập tức, Quỳnh
bị gọi tới đối chất với các quan
trường. Họ nhất nhất xin vua trị
tội Quỳnh thật nặng để rửa
nhục cho mình.
Trước mặt Chúa, Quỳnh bào chữa:
- Bẩm hoàng thượng, thần quả không
biết gì về việc quan trường đào
lấy ống quyển mà thần đã chôn vì lỡ
phóng uế vào trong. Trước đó, thần đã
bảo là cái thứ văn chương trong ấy
thối lắm, xin quan chớ xem. Ông ta một mực
bảo thối cũng cứ xem vì còn thơm hơn
vạn người khác. Sau đó, ông ta tự sai người
đào lên lúc nào, thần làm sao biết được!
Trước lý lẽ đó, các quan trường
cứng họng, không còn biết đối chất ra
saọ Bí quá , quan đốc thị bèn cáo:
-Khải Chúa, không phải Quỳnh chôn văn. Chính
hắn đã đem chôn ống quyển chứa toàn
thứ dơ bẩn và châu chấu đấy ạ!
Quỳnh biết bọn chúng đã tẩy rửa cái
ống quyển kia rồi mới mang theo, bèn dõng
dạc thưa:
- Khải tấu Hoàng thượng, quan thị nói
thế là vu oan cho thần đấy ạ!
Chúa truyền cho đem ống quyển ra thì thấy
đúng là một ống quyển sạch sẽ. Không
có gì buộc tội được Quỳnh, Chúa
đành sử hoà.
_______________________
Trong số quan lại ở phủ
Chúa có rất nhiều hoạn quan tham lam, nịnh hót.
Chúa tin dùng chúng vì chúng giỏi gièm pha, tâng bốc. Có
tên hoạn quan cấp trên ghét Quỳnh lắm, hễ
có dịp là hắn rình mò Quỳnh rồi tâu xấu
với chúa, xúi chúa làm tội Quỳnh. Quỳnh
biết điều đó nhưng làm ngơ, xem
hắn như cỏ rác.
Một hôm, Quỳnh quắp nách một quyển sách
rất đẹp, đi lơn tơn qua các hành lang,
mặt vẻ nghiêm trọng rồi lại giấu
giấu, giếm giếm? Tên hoạn quan kia đang rình
mò Quỳnh, thấy vậy sinh nghi, bèn chạy theo níu
áo đòi mượn sách xem. Hai bên giằng co một
hồi thì tên quan giật được. Hắn
lật từng trang, chỉ thấy toàn giấy
trắng, đến trang cuối cùng có chữ, nhưng
hắn cố căng mắt ra đọc cũng
chả hiểu gì cả. Túng quá, hắn bảo
Quỳnh đọc xem là gì, Quỳnh lại ra vẻ
quan trọng bảo:
- Đọc ở đây thật không tiện, nếu
ông muốn nghe, xin mời đến nhà cho kín đáọ
Về nhà, Quỳnh liền đọc cho tên quan kia
nghe những đIều ghi trong trang sách ấy, đó
là "Chúa vị thần viết, vi cốt tứ
dịch. Thị thần quị nhi tấu viết,
thần phùng chỉ phát." Xong, Quỳnh lại
diễn Nôm cho tên quan kia nghe, nghĩa câu đó là:
"Chúa hỏi thần rằng làm xương cho sáọ
Thị thần quì mà tâu rằng tôi may ngón tóc."
Nghe xong, quan hoạn cứ ngớ người ra
chẳng hiểu mô tê gì cả, lại gãi đầu
gãi tai nhờ Quỳnh giải thích. Quỳnh làm
bộ ngó trước ngó sau rồi nói khẽ:
- Ông nghe thì không sao, nhưng nếu Chúa mà biết thì
cầm chắc cái chết!
Tên hoạn quan thề rối rít:
- Không sao, chỉ có mình tôi biết thôi mà. Nếu có
điều hệ trọng, ai lại đi tâu với
chúa?
Quỳnh mỉm cười, giải thích:
- Nghĩa của nó là như thế này: Chúa hỏi
thần rằng làm sao cho sướng? Thị thần
quì mà tâu rằng tôi móc ngón tay! (Thị thần
tức là hoạn quan )
Tên kia nghe xong, mặt đỏ tía tai, phùng mang
trợn má lên hét:
- Thế ra lâu nay nhà ngươi tàng trữ sách
chế giễu Chúa, lại còn thoá mạ những
bầy tôi trung thành của Chúạ Hay lắm, rồi
ngươi sẽ biết tay ta!
Đợi hắn đi khỏi, Quỳnh liền tháo
bỏ cuốn sách, lấy trang giấy vừa rồi
đem đốt, thay vào đó là một trang giấy
mới rồi hí hoáy viết vào một câu khác.
Quả nhiên sáng hôm sau, Quỳnh được
lệnh vào chầu Chúạ Vừa thấy Quỳnh,
Chúa hỏi ngay:
- Nghe nói khanh có quyển sách lạ, ta muốn xem!
- Tâu, quyển sách ấy của thần thật không
có gì là lạ cả vì nó ghi những điều
nhảm nhí bậy bạ. Xin Chúa đừng xem!
Nghe Quỳnh nói, Chúa lại càng chắc rằng điều
mà tên hoạn quan ton hót với mình là đúng bèn phán:
- Nhà ngươi viết những gì trong sách mà không dám
cho ta xem. Nếu không có gì phạm thượng thì
cứ lấy đưa ta xem!
Quỳnh cứ một mực tâu là sách chẳng đáng
xem, Chúa lại càng ngờ hơn, sau cùng thì sai lính áp
giải Quỳnh về tận nhà lấy sách đem vào
cho Chúa xem. Khi có sách ,vua giở mãi đến trang
cuối mới thấy một câu: Ngã tư thế
sự. Tư viết tả tô chấn tân thịnh
nền giai khống xái châụ
Theo lệnh chúa, Quỳnh xướng đọc và
diễn nghĩa từng đoạn như thế này :
"Ngã tư thế sự," là ta nghĩ về
dự thế, "Tư viết," là nghĩ
rằng, "tả,tô, chấn," là mình phải
tả, tô điểm thêm, làm cho hưng chấn thêm,
" tân thịnh nền " là đẹp vô cùng ,
"Xái châu," là châu báu cũng không sánh kịp.
Nghe xong Chúa cười phào nhẹ nhõm: đúng là
chẳng có gì đáng nghe cả, chỉ là một câu
lằng nhằng về ý tứ, nhưng Chúa lại
cho rằng Quỳnh có ý khen tặng ngài là bậc anh
minh, bèn thưởng mười nén bạc cho
Quỳnh!
Thấy không làm gì được Quỳnh, chiều hôm
ấy, tên hoạn quan mò tới nhà Quỳnh, vỗ
về :
- Trạng đừng trách tôi đã ton hót với Chúa
nhé. Vì nếu không thế thì sao Chúa biết đến
sách quý của trạng và được thưởng
hậu thế!
Quỳnh chẳng nói chẳng rằng, mở tủ
lấy quyển sách kia ra để trên bàn và nói:
- Ai lại trách ông làm gì. Có điều ông không
biết rằng chính cái câu tôi viết trong sách không
phải để đọc cho Chúa nghe mà để dành
riêng cho ông đấy!
Trong khi tên hoạn quan còn ngơ ngác chưa hiểu
ất giáp gì thì Quỳnh đã chỉ vào sách , đọc
:
- "Ngã tư thế sự," là tao nghĩ cái trò
đời, "tư viết," là nghĩ rằng,
"tả tô chấn," là tổ cha hắn, "tân
thịnh nền," là tên lịnh thần, "giai
khống, "xái châu," là xấu chơi ! Cả câu
đọc lái sẽ là?, ông đã thông chưa nào ?
Tên hoạn quan nghe xong thì giận bầm gan tím
ruột, cay đắng cõi lòng nhưng cứng
họng không thốt ra được lời nào,
lẳng lặng rút lui .
________________
Vua được người
nọ đem dâng một mâm đào đỏ hồng
trông ngôn lành và hết sức đẹp mắt, ông
ta nói đó là loại đào trường thọ, ai
ăn vào sẽ sống lâu trăm tuổị
Vua thấy đào quí, chưa muốn ăn vội,
cứ để đó khiến văn võ bá quan nhìn mà
thèm đến nhỏ dãị Nhưng của vua thì
chớ ai dám động vàọ
Ngày kia, Quỳnh vào chầu, trông thấy mâm đào
để trên long án. Quỳnh thản nhiên như không,
đưa tay bẻ một trái cắn rau ráụ Các
quan trong triều trông thấy sợ hết hồn
đễn lỗi không dám nhìn.
Vua biết Quỳnh ngang nhiên ăn đào quí của mình
thì giận lắm, nhất định sử Quỳnh
tội chết chém vì khi quân phạm thượng.
Quỳnh nghe thế vẫn không tỏ ra sợ hãi,
chỉ giả đò buồn rầu quì trước
mặt nhà vua, tâu:
- Thần mang tội xúc phạm đến bệ
hạ, nay có chết cũng là đáng. Tuy nhiên, trước
khi Quỳnh này ra đi gặp tổ tiên thì cũng
xin có mấy lời muốn tâu, mong bệ hạ cho phép
thần nóị
Nhà vua bằng lòng, bảo cứ nóị
Quỳnh thưa:
- Không phải là thần tham ăn đến lỗi vì
một đào mà mất mạng, nhưng chính vì tôi
trung muốn hầu hạ Chúa thêm vài chục năm
nữa nên mới ăn đào quí, chỉ mong sống
lâu mà thờ bệ hạ. Không ngờ, đào
gọi là trường thọ thật quá đoản
thọ, vì mới ăn xong thì cái chết đã đến
cận kề. Thưa bệ hạ, thế có phải
là loại đào trường thọ, thọ thật
hay không ạ? Ai nói thế chính là láo khoét, xin bệ
hạ làm tội kẻ đó mới phải!
Vua nghe xong, thấy Quỳnh nói rõ ràng là chí lý,
lại e mình ăn vào lỡ cũng đoản
thọ thì khốn. Bèn ra lệnh tha ngay cho Quỳnh.
_____________
Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích
bằng xích vàng và cho ăn những đồ mỹ
vị.
Quỳnh vào chầu, trông thấy, bắt trộm
về, cất xích vàng đi mà buộc xích sắt,
nhốt một chỗ, đến bữa thì để
hai bát cơm, một bát thịt cá, một bát rau
nấu đầu tôm. Mèo ta quen ăn miếng ngon
chạy đến bát cơm thịt cá chực ăn.
Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo
đói quá, phải ăn bát rau nấu đầu tôm.
Như thế, được hơn nửa tháng,
dạy đã vào khuôn, mới thả ra. Vua mất mèo,
tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà
Quỳnh có một con giống hệt, bắt Quỳnh
đem mèo vào chầụ Vua xem mèo, hỏi:
- Sao nó giống mèo của trẫm thế? Hay khanh
thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem
về, nói cho thật!
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi
cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin
bệ hạ đem ra thử thì biết.
- Thử thế nàỏ Nói cho
trẫm nghẹ
- Muôn tâu bệ hạ, bệ
hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ
thần nghèo túng thì mèo ăn cơm với đầu
tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm
ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến
bát cơm rau, ăn sạch. Quỳnh nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú quý
thì ăn cao lương mỹ vị, bần tiện
thì cơm hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải
theo chủ.
Rồi lạy tạ đem mèo về.
_____________
Các bà, các cô chợ búa ở
khắp các phường kinh thành Thăng Long chưa
bao giờ đi chợ lại gặp chuyện lạ
kỳ như sáng hôm nay.
Họ đến hàng thịt lợn, thịt trâu,
thịt bò ... hỏi mua, nơi nào người ta cũng
lắc đầu quầy quậy nói đã có khách hàng
trước rồi. Người mua không nghi ngờ gì,
tin người bán nói thật vì các loại thịt
đều đã thái nhỏ ra thành miếng chứ không
để nguyên cả tảng, cả sút.
Hỏi ra, mới biết nhà vua ngày rày giao cho quan
Trạng làm chủ một tiệc rất lớn. Nghe
nói khách đông lắm, phục dịch không xuể.
Gia nhân được lệnh quan Trạng, đến
báo các hàng thịt khắp nơi thái sẵn ố có
bao nhiêu cũng mua, đắt mấy cũng lấy
ố để về làm bếp chỉ có việc
chế biến, gia giảm, kịp làm cỗ, soạn
mâm.
Nhưng ngày hôm ấy, đến khi chợ vãn
hết người, ruồi muỗi vù vù đến bâu,
các quầy hàng thịt vẫn còn đóng ghế
ngồi đợi. ... Quá trưa sang chiều, thịt
đã bắt đầu ôi chảy nước ra
vẫn không thấy mặt mũi khách hẹn đâu.
Trong bọn họ nhiều kẻ sốt ruột, đánh
liều đến thẳng nhà quan Trạng. Đến
nơi, vắng tanh vắng ngắt, chẳng thấy
cỗ bàn, khách khứa nào cả. Họ hỏi đầu
đuôi thì chính Quỳnh ra trả lời rằng:
- Sao bà con lại dại dột cả tin như
vậy? Chắc có đứa nào mạo danh
"Trạng" chơi xỏ đấy thôi. Cớ
sự đã thế, bà con cứ gọi những
thằng nào, con nào "bảo thái" (*)ra mà
chửa cái thói ấy đi.!
Các hàng thịt không nhớ mặt, biết tên phường
những người đặt hàng. Bực mình
chỉ con biết đứng ra giữa chợ
chửi um lên:
- Tiên sư thằng "Bảo Thái"! Tiên sư
thằng "Bảo Thái"!
"Bảo Thái" là niên hiệu vua Lê
đương thời. Thành thử nhà vua không làm gì
bọn hàng thịt mà bị chúng réo tên chửi oan,
không còn mặt mũi nào ra khỏi thành nữa.
(*) bảo = biểu ; thái = xắt, cắt
_______________________
Chúa Trịnh ngày nào cũng yến
tiệc, ních đầy bụng những sơn hào,
hải vị. Người ăn của ngon nhàm
mồm đâm ra khó tính. Một hôm, chúa khó ở, lưỡi
sẽ đắng, bụng ậm ạch.
Nhân ngồi với Quỳnh, chúa phàn nàn:
- Ta ngẫm không còn thiếu thứ gì quý hiếm
thứ gì trên đời chưa thưởng thức.
Quái lạ, thế mà vẫn chưa món nào làm ta
thực sự cảm thấy ngon miệng. Điều
đó là tại làm sao, Trạng nói ta hay?
Quỳnh nói luôn:
- Thế chúa đã được xơi món mầm
đá chưa?Chúa lấy làm lạ:- Món mầm đá
thế nào, chắc ngon lắm phải không?
Quỳnh đáp:
- Tuyệt trần đời. Nhưng muốn ăn
mầm đá phải kỳ công.
Chúa liền nằng nặc:
- Sợ gì công phu! Miễn là được ăn
ngon. Nhất là lúc này, người đang mệt
mỏi, ta đang rất cần ăn biết ngon.
Trạng hãy mau chóng cho làm món mầm đá kia đi!It
lâu sau, vào tờ mờ sáng, Quỳnh viết thiếp
cho gia nhân mời chúa đến nhà thết tiệc
mầm đá.
Chúa đến nhà Trạng ngay từ mới rạng sáng.
Đến khi mặt trời đứng bóng, vẫn
thấy Quỳnh bận rộn lụi hụi dưới
bếp, thỉnh thoảng chạy ra, chạy vào,
mồ hôi nhễ nhại, khăn tay vắt vai, tay áo
xắn đến khuỷu ....
Chúa nghĩ thầm: "Đúng là món mầm đá
kỳ công thật, nên Trạng mới phải ra tay
đốc thúc nhà bếp tất tưởi như
thế kia!"
Quá ngọ, sang mùi, bụng chúa bắt đầu
cồn cào. Quỳnh vừa ló mặt, chúa chép
miệng trách:
- Sao "mầm đá" lâu chín thế? Biết
thế này ta chẳng nhận lời đến nhà
Trạng hôm nay!
Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán khai
rằng:
- Thần muốn chúa ngon miệng nên mới dụng công
ninh "mầm đá" thật công phu. Xin gắng
đợi chút nữa, sắp chín rồi ...!
Một chốc chúa lại giục, Quỳnh lại
khẩn khoản thưa: "Gắng đợi thêm
một chút, mầm đá không kỹ lửa, không ninh
nhừ khó tiêu ...!"
Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món
mầm đá được dọn ra. Mùi cá khô,
lẫn mùi khói bếp bên mấy nhà vào bữa cơm
chiều, làm chúa "nhức lỗ mũi", ứa
nước dãi.
Chúa đành gọi Quỳnh lên, chúa ngồi lù đù
bóp bụng lại, thú thật:
- Ta đói lắm rồi, không đợi được
nữa. Mầm đá để dành sau cũng
được. Bây giờ có thức gì dùng tạm,
Trạng cứ cho mang lên!
Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng
rồi hét vọng xuống bếp:
- Cứ chất thêm củi vào nồi "mầm
đá"! Hãy bưng cơm lên dâng chúa dùng cho qua loa
đã chúng bay!Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên.
Bữa xoàng, có một phạng cơm với rau
muống luộc, và một chiếc hũ sành. Chúa
thấy ngoài chiếc hũ dán mảnh giấy
hồng điều đề hai chữ "Đại
Phong". Chúa ăn cơm rau chấm nước "Đại
Phong" ngon lành, chỉ một loáng lại đưa
bát cho Trạng xơi tiếp. Chúa nghĩ bụng,
chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt,
nên thấy Trạng giữ gìn chiếc hủ cẩn
thận. Có lần rau đã hết nước
chấm, mãi mới thấy Trạng cẩn thận
đỡ miệng hủ, múc thêm mấy muôi nhỏ
"Đại Phong" nữa.
Chúa ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn Trạng:
- Này khanh, "Đại Phong" là món gì mà ngon
lạ như vậy?
- Khải chúa, đây chỉ là món thường
nhật của con nhà trong làng!
Chúa không tin:
- Hai chữ "Đại Phong" là nghĩa thế
nào?
Quỳnh tủm tỉm cười:
- Nhà chúa nhìn được mặt chữ, tự
giải lấy khắc rõ!
Chúa lẩm bẩm:
- "Đại Phong" tức là gió lớn,
phải không?
Quỳnh gật đầu, hỏi tiếp:
- Vậy gió lớn thì làm sao?
Chúa bối rối như học trò không thuộc bài,
nhìn Trạng.
Quỳnh giảng giải:
- Gió lớn ắt đổ chùa!
Trạng lại tiếp, hỏi dần:
- Đổ chùa thì làm sao?
Chúa càng ấp úng.
Quỳnh nói:
- Đổ chùa thì sư, vãi bỏ chạy xôi
oẵn mất hết ... Của ngọc thực rơi
vãi hết thì ông bụt nào cũng phải lo ...Tượng
lo thì làm sao?
Trạng hỏi, đáp, dồn dập, liên hồi ...
Chúa chỉ còn biết ngồi trơ ra như
phỗng.
Hồi lâu, Quỳnh mới chịu khẽ khàng
cắt nghĩa:- Đến trẻ con cũng biết
đọc ngược thì "tượng lo" là
"lọ tương". Khải chúa, thứ tương
này không cao sang đâu, chẳng qua chúa quên mất
những miếng ngon lành ở làng xóm rồi. Nay
thần bày cách ninh "mầm đá", chẳng
thể đun được nhừ, đợi đến
bao giờ cũng không có thể ăn được.
Chúa cứ ngồi cho bụng thật đói, miệng
thật thèm, bấy giờ chỉ cần lấy lưng
cơm với món "Đại Phong" xoàng xĩnh
này, chúa thấy ngon miệng!
Chúa Trịnh bừng tỉnh trước một
sự thật ngay bên mình ... Chúa đứng dậy, cám
ơn Trạng ra về.
______________
ên cầm đầu thị thần và bọn hoãn quan
trong phủ chúa rất ghét Quỳnh. Chúng bèn bàn nhau tìm
cách hại Quỳnh.
Chọi với Trạng thế nào nổi về
mặt đối đáp nghĩa lý, văn chương,
bọn chúng bày ra chọi gà. Chúng nuôi nhiều gà nòi
nổi tiếng, có con ăn giải mấy năm
liền, nức tiếng cả kinh kỳ, phố
Hiến.
Lúc đầu chúng đến gạ, Quỳnh từ
chối. Sau thấy chúng nài nỉ năm lần,
bảy lượt, Quỳnh chặc lưỡi:
- Ừ thì chọi.
Bên kia mừng rơn, vội về phục thuốc,
phục sâm cho gà đẫy lực trước khi ra sân
đấu. Chúng con dẻo miệng tán tỉnh mời
được cả chúa nhận lời đến
ngự tọa cuộc vui.
Tới chọi mở giữa ban ngày vào một
buổi sáng tại sân nhà Trạng. Không kể nhà chúa
và lũ lâu là hầu cận, hôm ấy rất
nhiều quan văn, quan võ trong triều, cùng dân chúng
kinh thành nghe tiếng, chen chúc chật như nêm.
Một hồi ba tiếng trống vừa dứt,
cả hai đều tung gà ra sới. Gà cửa bọn
quan thị, thoạt rông đủ biết là gà
chiến lão luyện. Da nó trần trụi đỏ
au, đôi mắt là hai hòn than lửa, mỏ thì
quặp xuống, trông còn dễ sợ hơn mỏ
đại bàng. Nó chưa rướn cổ, giang cánh,
chỉ mới ướm cựa đặt những ngón
chân xuống nền đất bằng mà bụi cát
đã vẩn lên từng đám.
Trong khi đó, trông đến gà của Trạng, ai cũng
phải phì cười. Không những nó thiếu khí
thế oai phong, ngay đến cốt cách bình thường
của một con gà chọi cũng không có được.
Nhìn kỹ, nó như loại gà sống thiến, nhưng
ở đây, chưa có ai có thể ngờ tới
điều đó. Biết đâu đấy,
"tầm ngầm đá ngầm chết voi" thì
sao?
Hai "đấu thủ" gặp nhau ở vòng giao
chiến thứ nhất. Người ta thấy gà
của trạng không thủ thế gì, đập cánh
phành phạch nhảy chồm ngay lên mổ vào đầu
đối phương.
Số đông khán giả vốn có cảm tình
với Trạng ghét lũ nịnh thần quan hoạn,
đã vỗ tay reo hò. Vừa ngay đấy, con gà
thiện chiến kia ra miếng. Chỉ một loáng, nó
xĩa cựa chân trái vỡ ức con gà của
Trạng ...
Kẻ "chiến bại" rũ lông cánh nằm
giẫy đành đạch ...
Trên chòi cao, chúa cả mừng cười khoái trá. Người
đứng xem chán ngán bỏ về, còn bọn quan
thị thì reo hò đắc thắng. Một tên đến
trước mặt Trạng, nói khiêu khích:
- Thế mà có kẻ dám bảo gà của Trạng máy
lần chọi thắng ga của xứ Tàu. Té ra
chỉ toàn là đồn hão!
Quỳnh làm bộ buồn phiền đáp lại:
- Vâng, các ông nói phải. Trước kia gà của tôi
cũng cứng cựa, nhưng từ khi nó bị
thiến, nó mới đâm ra đổ đốn
thế này!
Bây giờ nhà chúa và lũ tay chân mới biết
Trạng chơi xỏ, đem gà thiến ra chọi
với gà chính cống.
Thầy tớ chúa tôi bẽ mặt, nháy nhau rút quân
cho nhanh. Trạng vẫn không tha, cứ lễ mễ ôm
con gà chết, chạy theo đám quan gia, cờ
quạt ... mà khóc:
- Khốn nạn thân mày, gà ơi! Mày đã bị
thiến thì còn đua đòi làm gì? Tao đã bảo,
mày không nghe, mày cứ ngứa nghề mà tranh chọi
... Hu ..hu ... mày chết nhục nhã, hèn hạ cũng là
đáng đời mày, chỉ thương tao tốn cơm,
phí thóc, mất công toi nuôi mày, gà ơi là ... con gà
... bị thiến ...kia ơi!
Tiếng Trạng khóc gà "đuổi" tận vào
cung cấm. Bọn quan lại đóng chặt mấy
lần cửa, vẫn còn nghe văng vẳng câu
chửi mĩa đau như hoạn.
|