|

Nguyễn
Du, tác giả Truyện Kiều nổi
tiếng, tên chữ là Tố Như, hiệu
là Thanh Yên, người làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.Ông sinh năm 1765
(niên hiệu Cảnh Hưng) và mất năm
1820 ( Niên hiệu Minh Mệnh).
Ông vẻ người khôi ngô,
tuấn tú, rất thông minh, lúc lên 6 tuổi
đi học , sách vở chỉ xem qua một
lượt là thuộc. Năm 19 tuổi, ông
thi hương đậu tam trường; có
ra làm quan với nhà Lê. Khi Tây Sơn nổi lên,
ông về ở ẩn tại quê nhà. Sau ông
bị nhà Nguyễn triệu ra làm quan và
cử đi sứ Trung Quốc vào năm 1813;
đến năm 1820 ông lại được
cử đi sứ lần nữa nhưng chưa
kịp đi th́ mất.
Tương truyền lúc c̣n trai
trẻ Nguyễn Du- khi ấy thường
gọi là cậu Chiêu Bảy, rất thích hát
phường vải. Bấy giờ có làng Trường
Lưu cũng thuộc huyện Nghi Xuân, là
một trong những làng nổi tiếng
về hát phường vải, về nghề
dệt vải và về con gái đẹp. Làng
Tiên Điền th́ có nghề làm nón; con trai phường
nón thường kéo nhau sang hát phường
vải ở Trường Lưu. Họ đi
hát v́ mê hát , nhưng một phần cũng
v́ mê các cô gái đẹp. Trong các chuyến
đi ấy, Chiêu Bảy chẳng bao giờ
vắng mặt. Có một đêm hát nọ,
Chiêu Bảy t́nh cờ gặp được
một cô gái tên Cúc, người đẹp,
giọng hay, tài bẻ chuyện, nhưng
chỉ phải một nỗi đă sắp quá
th́ mà vẫn chưa chồng. Chiêu Bảy
biết thóp như vậy, liền bẻ ngay
một câu như sau để ghẹo chơi:
Trăm
hoa đua nở mùa xuân,
Cớ sao Cúc lại muộn màng về thu?
Chiêu Bảy vờ nói hoa nhưng kỳ
thực là muốn châm chọc: Các cô gái khác
đều đă đi lấy chồng sơm,
sao riêng cô Cúc lại để quá lứa
lỡ th́ như vậy?
Nhưng cô Cúc nào phải tay
vừa, thoáng nghe qua cô đă hiểu ngay ư
tứ của đối phương, bèn hát
đáp lại rằng:
V́
chưng tham chút nhụy vàng,
Cho nên Cúc phải muộn màng về thu.
Hoa cúc vốn là hoa nở về thu; cúc
nở về thu mới là đang độ măn
khai, thế là đúng kỳ chớ không
phải là muộn.
Câu hỏi cũng khôn mà câu trả
lời cũng thật là khéo lắm; Chiêu
Bảy đành phải lảng sang chuyện
khác không dám hỏi về chuyện ấy
nữa
***
Nguyễn Du lúc c̣n là học
tṛ ở với thân sinh là Xuân quận công
Nguyễn Nghiễm ở Hà nội, theo học
với một ông đồ họ Lê ở Gia Lâm,
bên kia sông Nhị. Cậu học tṛ cùng các
bạn ngày nào cũng phải qua sông bằng
đ̣ ngang. Người chở đ̣ là một
cô gái nhà nghèo, nhưng xinh xắn và ăn nói có
duyên. Cậu học tṛ Nguyễn rất để
ư.
Một hôm,
cậu đến chậm, lỡ chuyến đ̣,
cậu phải chờ đợi sốt
ruột, nên làm một bài thơ nhờ bạn
đưa cho cô gái, để tỏ ḷng ḿnh và
cũng để thử ḷng cô gái. Bài thơ như
sau:
Ai ơi, chèo
chống tôi sang
Kẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi ra
C̣n nhiều qua lại lại qua,
Gíup cho nhau nữa để mà...
Câu thơ
cuối, tác giả bỏ lửng có ư để
chờ cô gái điền vào. Nhận được,
cô gái bẽn lẽn và từ chối; nhưng
về sau nể lời bạn cô, cô cũng thêm
vào hai chữ... quen
nhau.
Thế
rồi hai người yêu nhau. Nhà thơ thổ
lộ tâm t́nh ra bốn câu lục bát rằng:
Quen nhau nay
đă nên thương
Cùng nhau xe mối tơ vương chữ t́nh
Cảnh xinh xinh, người xinh xinh,
Trên trời, dưới nước, giữa ḿnh
với ta
Họ yêu
nhau tha thiết, quyết chí lấy nhau, nhưng
rồi không lấy được nhau. Bởi
lẽ đơn giản: Nguyễn Du là cậu
trai quư tộc mà cô kia th́ chỉ là một cô gái
b́nh dân. Chẳng những thế, do chuyện yêu
đương ấy, Nguyễn Du c̣n bị
gọi về nhà chịu một trận đ̣n
nên thân, rồi lại bị gửi về
học một ông đồ khác ở mạn Thái
B́nh.
Hơn
10 năm sau, khi Nguyễn Du có dịp trở
lại bến cũ đ̣ xưa th́ cô gái đi
lấy chồng lâu rồi, chỉ c̣n cây đa
vẫn c̣n xanh tươi trước gió, ḍng nước
đỏ vẫn lặng lẽ trôi xuôi. Bến
đ̣ vẫn đông người qua lại nhưng
vắng bóng một người. Trông cảnh cũ,
nhớ người xưa, nhà thơ đành bùi
ngùi sẻ ngâm lên bốn câu lục bát để
gửi gấm ḷng ḿnh:
Yêu nhau
những muốn gần nhau
Bể sâu trăm trượng, t́nh sâu gấp mười
V́ đâu xa cách đôi nơi
Bến này c̣n đó, nào người năm xưa?
Câu
chuyện đau ḷng này, sau được
Nguyễn Du tự tay ghi chép trong một bản
thảo, dưới nhan đề "Mối
t́nh hận của ta".
|